Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2014

Đề đạo nhân vân thủy cư kì thập cửu



Tác giả: Lê Thánh Tông 黎聖宗
題道人雲水居其十九
短短茅齋竹徑通
柴扉鎮日掩春風
道人好睡仙癯地
滿地凋花不掃紅

Đoản đoản mao trai trúc kính thông 
Sài phi trấn nhật yểm xuân phong 
Đạo nhân hảo thụy tiên cù địa 
Mãn địa điêu hoa bất tảo hồng

Dịch nghĩa: 
Đề nơi ở chốn mây nước của Đạo sĩ (bài 19)  
Ngõ trúc thông tới nhà tranh lụp xụp, 
Cửa sài đóng suốt ngày che cả gió Xuân; 
Người Đạo sĩ ngủ rất ngon ở nơi tiên cảnh, 
Đầy sân hoa rụng chưa quét, vẫn đỏ rực.

Dịch thơ: 

Lụp xụp mái tranh thông ngõ trúc, 
Cửa sài khép chặt gió Xuân hòa; 
Cõi tiên Đạo sĩ nằm ngon giấc, 
Rụng đỏ đầy sân những cánh hoa. 
                                                 Mai Hải 

II 
Mái tranh thông lối trúc vào, 
Suốt ngày cửa đóng, gió nào lùa đây; 
Đất tiên Đạo sĩ ngủ say, 
Đầy sân chẳng quét, đỏ đầy hoa rơi. 
                                                         Đỗ Quang Liên 



Thứ Năm, 30 tháng 10, 2014

Đề đạo nhân vân thủy cư kì thập bát



Tác giả: Lê Thánh Tông 黎聖宗
題道人雲水居其八
玩水娛雲興未闌
四方無數好青山
参差歸鳥日將夕
時有吟翁獨騎還


Ngoạn thủy ngu vân hứng vị lan 
Tứ phương vô số hảo thanh san 
Sâm si quy điểu nhật tương tịch 
Thời hữu ngâm ông độc kỵ hoàn

Dịch nghĩa:  
Đề nơi ở chốn mây nước của Đạo sĩ (bài 18)  
Vui cảnh nước mây, hứng thú chưa tàn, 
Bốn bề vô số non xanh tươi đẹp; 
Mặt trời sắp lặn, thấp thoáng cánh chim bay về tổ, 
Lúc ấy chỉ có một mình nhà thơ cưỡi ngựa quay về.

Dịch thơ: 

Vui chơi non nước hứng say sưa, 
Bốn bề rừng xanh đẹp dễ ưa; 
Chiều xuống, chim ngàn bay thấp thoáng, 
Nhà thơ giục ngựa bước quay về. 
                                                          Mai Hải 

II 
Vui chơi mây nước say sưa, 
Biết bao non thắm dễ ưa bốn bề; 
Chiều hôm, thấp thoáng chim về, 
Nhà thơ quay ngựa nhẩn nha một mình. 
                                                Đỗ Quang Liên 




Thứ Tư, 29 tháng 10, 2014

Đề đạo nhân vân thuỷ cư kỳ thập thất



Tác giả: Lê Thánh Tông 黎聖宗
題道人雲水居其十七
暉暉朱日竹陰涼
三五蟬聲夏影長
一枕北窗塵梦斷
荷花輕起睡鴛鴦

Huy huy chu nhật trúc âm lương 
Tam ngũ thiền thanh hạ ảnh trường 
Nhất chẩm bắc song trần mộng đoạn 
Hà hoa khinh khởi thụy uyên ương

Dịch nghĩa:  
Đề nơi ở chốn mây nước của nhà đạo sĩ (bài 17)  
Bóng tre râm mát dưới mặt trời đỏ chói chang,  
Dăm ba tiếng vevẳng giữa ngày hè dài;  
Bên cửa sổ phía Bắc đánh một giấc dứt mộng trần, 
Hoa sen khẽ lay động,đánh thức đôi uyên ương đang ngủ.

Dịch thơ:

Chang chang trời nắng bóng tre râm, 
Chầm chậm trưa hè ve cất ran; 
Khung cửa nằm ngơi, lìa mộng tục, 
Hoa sen lay động giấc uyên ương. 
                                                   Mai Hải 

II 
Nắng hồng có rợp bóng tre, 
Nhạc ve dăm tiếng cảnh hè dài thêm; 
Mộng trần tan dưới gối êm, 
Hoa sen lay thức uyên ương mặt hồ. 
                                                Đỗ Quang Liên 




Thứ Ba, 28 tháng 10, 2014

Đề đạo nhân vân thủy cư kì thập lục



Tác giả: Lê Thánh Tông 黎聖宗
題道人雲水居其十六
薹榭依稀夕照天
寒雲出岫翠綿綿
定知避地韜光客
冷看功名不值錢

Đài tạ y hi tịch chiếu thiên 
Hàn vân xuất tụ thúy miên miên 
Định tri tị địa thao quang khách
Lãnh khán công danh bất trị tiền

Dịch nghĩa:  
Đề nơi ở chốn mây nước của đạo sĩ (bài 16)  
Đài tạ thấp thoáng dưới bóng chiều tà, 
Mây lạnh trôi ra từ dãy núi xanh xa tít; 
Biết rõ đó là nơi ẩn tránh của người dấu tung tích, 
Coi rẻ công danh không đáng một đồng tiền.

Dịch thơ:

Đài tạ lưa thưa, trời bảng lảng, 
Mây tuôn rặng núi biếc triền miên; 
Ấy nơi ẩn dật người tài đấy, 
Coi áng công danh chẳng đáng tiền. 
                                             Lâm Giang 

II
Lưa thưa lầu gác bóng tà, 
Mây tuôn từ dãy núi mờ xa xanh; 
Nơi người ẩn tích mai danh, 
Coi khinh nhìn áng công danh lạnh lùng. 
                                                  Đỗ Quang Liên 



Thứ Hai, 27 tháng 10, 2014

415. Đề đạo nhân vân thủy cư kì thập ngũ



Tác giả: Lê Thánh Tông 黎聖宗
題道人雲水居其五
霞鷺齊飛秋水清
一天煙景有誰爭
投林有鳥穿雲去
三兩蘆人緩緩行

Hà lộ tề phi thu thủy thanh 
Nhất thiên yên cảnh hữu thùy tranh 
Đầu lâm hữu điểu xuyên vân khứ 
Tam lưỡng lô nhân hoãn hoãn hành

Dịch nghĩa:  
Đề nơi ở chốn mây nước của đạo sĩ (bài 15)  
Ráng chiều và cò cùng bay, nước mùa thu trong vắt, 
Đầy trời mây khói chẳng ai giành giật; 
Chim bay về ngàn, luồn qua áng mây, 
Dăm ba người trong rừng lau bước đi thong thả

Dịch thơ: 

Nước thu xanh biếc, ráng cò bay, 
Chẳng kẻ nào tranh cảnh khói mây; 
Luồn ráng xuyên rừng chim đậu tổ, 
Dăm ba người bản bước vơi đầy. 
                                                  Mai Hải 

II 
Nước thu in ráng, cò bay, 
Nào ai giành cảnh khói mây, một trời; 
Về rừng, chim vượt mây trôi, 
Trong lau thong thả mấy người bước đi. 
                                             Đỗ Quang Liên





Chú thích: 
Người trong rừng lau: Nguyên văn “Lô nhân”, rút gọn từ “Lô trung nhân” xuất xứ từ sách Ngô Việt xuân thu, vừa chỉ người sống mai danh ẩn tích, vừa chỉ người đi trong rừng lau mùa thu.