Thứ Ba, 30 tháng 9, 2014

Đà giang tiểu bạc



Tác giả: Lê Thánh Tông 黎聖宗
陀江小泊
圓嶠舟中路匪賒
翠鬟白浪古山河
憸人莫不中腸愧
鸚語猩言日日多

Viên kiểu chu trung lộ phỉ xa 
Thúy hoàn bạch lãng cổ sơn hà 
Tiêm nhân mạc bất trung trường quý 
Anh ngữ tinh ngôn nhật nhật đa

Dịch nghĩa:  
Cắm thuyền nghỉ một lát ở sông Đà 
Trong thuyền, nhìn lên ngọn núi Tản Viên, đường chẳng bao xa, 
Núi tựa mái tóc xanh, sông lăn tăn sóng bạc, vẫn sông núi tự ngàn xưa; 
Bọn tiểu nhân huyênh hoang thấy đều xấu hổ trong lòng, 
Tiếng chim kêu vượn hót vẫn ngày ngày rộn rã.

Dịch thơ: 

Núi Tản, thuyền trông thấy cũng gần, 
Non xanh, nước bạc cổ giang sơn; 
Tiểu nhân hẳn cũng lòng buồn thẹn, 
Vượn hót, chim kêu vẫn rộn ràng. 
                                            Đỗ Quang Liên  

II  
Tản Viên thuyền lướt chẳng xa, 
Núi xanh, sông bạc sơn hà vẫn xưa; 
Tiểu nhân xấu hổ thẹn thò, 
Chim kêu vượn hót tiếng đưa tháng ngày. 
                                                              Hải Anh



Chú thích:
- Sông Đà: Tên sông lớn ở vùng Tây Bắc, miền Bắc Việt Nam, chảy qua Hòa Bình, đổ vào sông Hồng. 
- Núi Tản Viên: nguyên văn là “Viên kiểu”, vì dáng núi tròn như cái lọng, nên gọi là Tản Viên hay Viên Kiểu. Đây là dãy núi lớn, có tiếng ở Bắc bộ, nằm ở phía Bắc Hà Nội.






Thứ Hai, 29 tháng 9, 2014

395. Kinh điệp sơn



Tác giả: Lê Thánh Tông 黎聖宗
經叠山
江因潮上黄
柳得春多翠色明
詩客幾回傷往事
艤舟石畔問山名


Giang nhân triều thướng hoàng lưu hợp 
Liễu đắc xuân đa thúy sắc minh 
Thi khách kỉ hồi thương vãng sự 
Nghĩ chu thạch bạn vấn sơn danh

Dịch nghĩa:   
Qua núi Điệp 
Sông nhờ thủy triều lên, hợp với dòng sông Hoàng, 
Liễu đượm mùa xuân càng thêm vẻ biếc; 
Khách thơ mấy độ xót chuyện đã qua, 
Ghé thuyền sát vách đá hỏi thăm tên núi.

Dịch thơ: 

Sông nhờ triều dậy hợp dòng Hoàng, 
Liễu đượm màu xuân sắc biếc hơn; 
Thi khách mấy hồi thương chuyện cũ, 
Ghé thuyền vách đá hỏi tên non. 
                                           Đỗ Quang Liên 

II 
Triều dâng hợp với dòng vàng, 
Xuân về tơ liễu rộn ràng sắc xanh; 
Khách thơ việc cũ băn khoăn, 
Ghé thuyền sát vách hỏi thăm tên đồi. 
                                                          Hải Anh

Chú thích: 
Núi Điệp: tức núi Tam Điệp, dãy núi đá nằm giữa tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình. Ở đây chỉ nước sông Hồng và Hoàng Long khi thủy triều lên thì hòa vào nhau và dâng cao, thuận tiện cho thuyền bè đi lại. Sông Hoàng Long chảy qua Ninh Bình, là đường thủy đi tới Thanh Hóa.













Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2014

Kinh hưng bang quan



Tác giả: Lê Thánh Tông 黎聖宗


經興邦關
猿恨竹怨斜陽
枕上繁花夜雨凉
閲世老盆庚甲古
羊公湛湛斷人腸

Vụ viên hận trúc oán tà dương
Chẩm thượng phồn hoa dạ vũ lương 
Duyệt thế lão bồn canh giáp cổ 
Dương công trạm trạm đoạn nhân trường

Dịch nghĩa:
Qua cửa Hưng Bang 
Con vượn giận bóng tre cớm, dường như oán mặt trời chiều, 
Giấc mộng phồn hoa trên gối trong mưa đêm lạnh lẽo; 
Cái chậu cũ bao đời có niên đại rất xưa, 
Tấm gương thanh khiết của ông Dương khiến người ta tiếc thương đứt ruột.

Dịch thơ: 

Vượn giận tre râm, bóng ác tà, 
Đêm mưa bên gối mộng phù hoa; 
Chậu xưa trải đã bao thời đại, 
Nhớ đức ông Dương tiếc ngẩn ngơ! 
                                             Hải Anh 

II 
Vượn hờn tre cớm, ác tà, 
Gối khuya lạnh mộng phồn hoa, mưa rền; 
Chậu xưa trải đã bao niên, 
Dương Công đức tốt tiếc thương não lòng.
                                                 Đỗ Quang Liên



Chú thích: 
- Sách Sử ký, thiên Thượng bán kỷ‎ chép: Vua Thành Thang cho khắc vào chậu tắm câu “Nhật tân, hựu nhật tân, nhật nhật tân” nghĩa là: ngày càng mới, ngày càng thêm mới, mỗi ngày một mới. 
- Ông Dương: chỉ Dương Hộ đời Tấn Vũ Đế, thời Tây Tấn, làm Thái Thú quận Tương Dương, rất thanh liêm. Có người biếu cá, không đừng được phải nhận, song treo cá lên mà không ăn. Người biếu cá lại đem cá biếu, ông chỉ chỗ cá treo, người đó xấu hổ ra về. Từ đó không ai dám quà cáp hối lộ. Ông mất, dân lập bia kỉ niệm, ai tới xem bia cũng phải nhỏ lệ, vì vậy, sử gọi bia này là Bia rơi lệ.





Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2014

Trú an lạc



Tác giả: Lê Thánh Tông 黎聖宗
駐安樂
尋芳追勝少年興
流水高山萬古心
物色厭看俱幻梦
子規聲苦蜀寃深

Tầm phương truy thắng thiếu niên hứng
Lưu thuỷ cao sơn vạn cổ tâm 
Vật sắc yêm khan câu huyễn mộng 
Tử quy thanh khổ thục oan thâm

Dịch nghĩa:   
Nghỉ lại ở An Lạc 
Tìm thăm những nơi thắng cảnh là hứng thú tuổi trẻ, 
Tấm lòng muôn thuở để vào chỗ nước chảy, núi cao; 
Cảnh sắc nhìn no nê, biết đều là mộng ảo, 
Tiếng cuốc kêu khắc khoải, nỗi oan vua Thục thật là sâu.

Dịch thơ: 

Vãng cảnh xưa nay hứng thiếu niên, 
Tấm lòng muôn thuở gửi non ngàn; 
No nê cảnh sắc hay là mộng, 
Thục Đế oan sâu tiếng cuốc dồn. 
                                                    Hải Anh 

II 
Trẻ trai tìm chốn sắc hương, 
Lòng người vốn chuộng nước dồn, non cao; 
Sự đời mộng ảo khác nào, 
Hờn sâu vua Thục, cuốc kêu giọng buồn. 
                                                      Đỗ Quang Liên




Chú thích: 
- An Lạc: tên một huyện xưa thuộc phủ Vĩnh Tường, nay thuộc huyện Mê Linh, Vĩnh Phúc. 
- Nỗi oan vua Thục: sách Hoa Dương quốc chí nói: vua Đỗ Vũ nước Thục, hiệu là Vọng Đế, bị mất nước, lúc chết hóa thành chim Đỗ Quyên (còn gọi là Tử Quy hay chim Cuốc) kêu ra rả để tỏ lòng nhớ nước. Thơ Lý Thương Ẩn thời Đường có câu “Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên” nghĩa là lòng luyến tiếc mùa xuân của Vọng Đế gửi vào tiếng chim Đỗ Quyên.