Thứ Ba, 29 tháng 7, 2014

Vì sao “VỀ LẠI THĂNG LONG” lỗi hẹn với Ngàn năm Thăng Long ?

Khu lăng mộ họ Trịnh ở Thanh Hóa
                                 Ảnh: Phương Mai Blog
         Hoàng Tuấn Phổ
      
    Tôi sắp quên “Về lại Thăng Long”, bỗng được đọc bài giới thiệu của Trịnh Minh Châu viết từ 2010, nay gửi Tuấn Công thư phòng. Bản thảo “Về lại Thăng Long” vốn đã xin giấy phép NXB Văn học, đưa đến nhà in Đông Á.

 Bất ngờ ông Trịnh Tuấn lấy về theo lệnh Chủ tịch Hội đồng họ Trịnh Việt Nam Trịnh Đình Hưng. Trịnh Tuấn cũng lừa tôi lấy lại bản hợp đồng 4 tập viết về sự nghiệp nhà chúa từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Sâm, mỗi tập bản thảo 300 trang A4, cỡ chữ 13, và “Về lại Thăng Long” là tập I (Mỗi tập mang một tên riêng, tập cuối là “Giang sơn một dải”). Truyện không in được là điều đáng tiếc, cũng là chuyện đáng buồn cho họ Trịnh nhiều hơn tác giả. Bởi tôi là một cây “tạp bút” tôi không viết cái này thì cái khác, kể cả những thứ “tay trái” đều thành “tay phải”. Còn họ Trịnh “mất”gì?  Dĩ nhiên, mấy đồng bạc nhuận bút với họ Trịnh Việt Nam không có gì đáng kể ! Họ đã đánh mất một “cơ hội” ngàn năm không dễ gì gặp lại … Tôi đã định bỏ tiền ra in “Về lại Thăng Long” dĩ nhiên có điều chỉnh nội dung, tô đậm hơn vai trò vua Lê, nhà Mạc và họ Nguyễn, để quảng bá tác phẩm là chính, nhưng cứ luẩn quẩn trong vòng cơm áo ! (Hiện tôi lại phải lo kinh phí cho tập nghiên cứu phê bình văn hóa “Tóc bạc đèn xanh” vào dịp mừng thọ 80-2015 để có chút quà xuân tặng anh em bầu bạn …)
Tôi thấy họ Trịnh thời gian qua đã bị một số cá nhân lợi dụng. Trong “ Về lại Thăng Long”, đôi ba lần, vua tôi nhà Mạc gọi Trịnh Kiểm là kẻ gian hùng. Thậm chí họ có nói Trịnh Kiểm vốn là gã trộm gà bắt chó cũng có gì sai? Vì họ Mạc thù sâu với họ Trịnh, lẽ tất nhiên và dễ hiểu.Vậy, mấy ông lại đòi tôi phải sửa “kẻ gian hùng” thành “bậc anh hùng” !!! Tôi không thể chiều ý các vị, bởi không muốn tự biến mình thành kẻ nô bộc ngu dốt.
Sách Nhân vật chí (Lịch triều hiến chương loại chí), mục “dòng dõi chúa Trịnh”, về Thế tổ Minh Khang thái vương Trịnh Kiểm, Phan Huy Chú viết: “Ông trải giúp 3 triều Trang tông, Trung tông và Anh tông…”. “lúc Hàn vi nghèo túng, thường đi ăn trộm để nuôi mẹ” … ( NXB Sử học tr.175, 176). Sau khi tìm hiểu kỹ về nguồn gốc họ Trịnh, tôi đã dùng nhân vật Lê Phi Thừa đem chuyện Trịnh Kiểm vốn là kẻ trộm gà bắt chó tâu vua Trang tông. Trang tông sai người tin cẩn đi Sóc Sơn điều tra hư thực. Thì biết: Mẹ Trịnh Kiểm là con gái họ Hoàng (Hoàng Đình Ái) giàu có nhất vùng. Chính Trịnh Kiểm mồ côi cha từ nhỏ, được ông bà ngoại đem về nuôi dạy cả văn võ, cho nên lớn lên thành bậc văn võ song toàn được Nguyễn kim trao quyền Đại Tướng, khiến người ta dễ ganh ghét … Tôi lại mượn lời Trang tông nói về chữ “Hiếu”, Trịnh Kiểm nghèo túng quá phải trộm gà nuôi mẹ, đành cam tiếng xấu, đó là người con chí hiếu. Làm người, có chí hiếu với cha mẹ, mới tận trung với vua. Trang tông chảy nước mắt thương tiếc không có mẹ để lúc hàn vi cũng trộm gà nuôi mẹ như Trịnh Kiểm cho tròn chữ hiếu với mẹ… Tính thuyết phục của đoạn văn này rất cao, tại sao mấy vị họ Trịnh không chú ý chỗ quan trọng lại thắc mắc vô lý cái tiểu tiết xưng hô của kẻ địch?
      Nhưng vấn đề tày đình, tôi không thể tưởng tượng nổi là yêu cầu sửa đổi sự thật lịch sử để đề cao nhà Trịnh lên tận chín tầng mây!
     Chủ tịch Trịnh Đình Hưng thay mặt Hội đồng họ Trịnh Việt Nam làm việc trực tiếp với tôi về việc Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa. Vấn đề quốc sử đã chép rõ ràng, kỹ lưỡng, ai đã đọc, đã học quốc sử đều biết. Trịnh Đình Hưng đưa ra một quan điểm mới toanh: Việc Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa do chúa Trịnh cử đi với sứ mệnh mở mang đất nước phía Nam. Nhờ chúa Trịnh có chủ trương sáng suốt, lãnh đạo đúng đắn, chỉ huy tài tình mà Tổ quốc Việt Nam có thêm được phân nửa giang sơn. Còn chuyện Trịnh- Nguyễn đánh nhau là hai anh em giả vờ như vậy để che mắt thiên hạ!!!
      Ông Trịnh Đình Hưng trổ tài hùng biện thuyết phục tôi: Chúng ta viết đây là viết cho tầng lớp trí thức uyên bác hiện tại, chủ yếu cho con cháu đời sau có tầm nhìn cao hơn, sức hiểu biết suy tư sâu rộng hơn. Đối với những kẻ tầm thường ếch ngồi đáy giếng, chúng ta không cần bận tâm …!!!
    Tôi ngồi nghe vẻ nghiêm túc, không nói gì. Lúc sau, tôi nhận tiền nhuận bút ra về, từ chối cuộc đi chơi Sầm Sơn dù ông Hưng tha thiết mời.
Mấy hôm sau, ông Trịnh Tuấn, phó thư ký Hội đồng họ Trịnh mời tôi đến dự buổi gặp mặt của một số cụ trong họ để cảm ơn tác giả. Tôi từ chối không đi vì sức khỏe, xin khất dịp khác. Nhân chuyện vui, tôi hỏi Trịnh Tuấn: “Tôi rất túng, hiện đang cần tiền, các ông định trả công tôi bao nhiêu, mấy tỷ hay một tỷ, nếu tôi sửa lại lịch sử như ông Hưng nói?” Tuấn cười. Tôi biết ông không quyết định gì cả, “chỉ đâu đánh đó” mà thôi!
          Có lần, ông Nguyễn Văn Lợi, Bí thư tỉnh ủy (2010) đến nhà Tuấn Công, nơi tôi đang nghỉ dưỡng bệnh để thăm tôi. Ông Lợi bật cười to sau khi nghe tôi kể chuyện ngược đời !
Nhà thơ Minh Châu họ Trịnh thân kính ! Đó mới là nguyên nhân chính khiến “Về lại Thăng Long” lỗi hẹn ra đời dịp Kỷ niệm Ngàn năm Thăng Long-Hà Nội rồi ngủ quên trong máy tới tận bây giờ. Và có lẽ không ai được biết đến nó, nếu Trịnh Minh Châu không cho đăng bài “Giới thiệu” chân tình của mình.
Rất cám ơn bạn. Chúc bạn chiến thắng tất cả. Mong được gặp mặt nhau trong một ngày gần nhất.
                                                             H.T.P
Chú thích:
Nguyên đầu đề của tác giả: “Người viết gửi người đọc “Về lại Thăng Long”. Tuấn Công thư phòngđặt lại.



Thứ Sáu, 25 tháng 7, 2014

Nguyễn Cừ đã “GIẢI NGHĨA TỤC NGỮ VIỆT NAM” như thế nào ? (phần II)

Phần II
 “Giải nghĩa” hay đoán nghĩa ?

     Hoàng Tuấn Công

Trong phần I (Xem tại đây) chúng tôi đã chỉ ra một số sai lầm của Nguyễn Cừ trong “Giải nghĩa tục ngữ Việt nam” như: nhận lầm thành ngữ ra tục ngữ, không phân biệt được ngữ danh từ, cụm từ đơn thuần, quán ngữ với thành ngữ, tục ngữ,v.v...Một khi chưa hiểu tục ngữ Việt Nam là gì, việc Nguyễn Cừ thất bại trong “giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” giống như một bước tất yếu.

Dưới đây là trao đổi của chúng tôi. Đối với những câu, nếu thấy sách khác có cách giải thích hợp lý, chúng tôi sẽ trích dẫn, xem như thay lời trao đổi của mình.
Nói đến tục ngữ Việt Nam là nói đến kho tàng kinh nghiệm về sản xuất và các mối quan hệ ứng xử trong gia đình, xã hội. Tuy nhiên, Nguyễn Cừ thiếu kiến thức, hiểu biết cơ bản về cả hai lĩnh vực này:
Về kinh nghiệm lao động, sản xuất:
Nắng đan đó, mưa gió đan gàu: Kinh nghiệm của nông dân, nắng đan đó đi đặt bắt cá, còn mưa gió đan gàu tát nước.
Giải thích vậy không rõ nghĩa. Thậm chí sai nghĩa, bởi trời nắng đơm đó ở đâu được ? Còn đã có mưa việc gì phải tát nước nữa ? 
     Tục ngữ có câu: “Nắng lắm mưa nhiều”. Bởi vậy lúc nắng, nên chuẩn bị đan đó để khi đổ mưa lớn có thể đem đơm cá ngay. Còn lúc mưa gió, phải nghĩ ngay đến thời kỳ hạn hán diễn ra sau đó, nên cần đan gàu chuẩn bị chống hạn. Nghĩa bóng: đây là kinh nghiệm dự đoán thời tiết để bố trí lao động sản xuất, lợi dụng yếu tố thuận lợi, khắc phục điều kiện thiên tai bất lợi của nhân dân.
Nhất ruộng, nhì mạ, thứ ba chuyên cần: Kinh nghiệm nhà nông làm ruộng, trồng lúa.
Ai cũng biết đó là “kinh nghiệm nhà nông làm ruộng, trồng lúa”, (không ai nhầm với kinh nghiệm buôn bán hay chăn nuôi lợn gà). Nhưng kinh nghiệm ấy như thế nào, cần phải giải thích rõ.
Ở đây, nông dân muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của chân đất: trong canh tác (đặc biệt lúa nước), quan trọng nhất là chân ruộng: chủ động tưới tiêu, chất đất màu mỡ, không chua mặn. Có được chân ruộng tốt này, không cần đầu tư nhiều, thậm chí phân tro có kém tí chút lúa vẫn cho năng suất khá. Ngược lại, vớ phải chân đất xấu, “chiêm khê, mùa thối”, chua mặn, dẫu có bỏ công sức, đầu tư nhiều phân bón, cũng rất khó đẩy năng suất lên cao. (Kinh nghiệm này đến bây giờ vẫn đúng). Ngoài ra, tục ngữ còn nhấn mạnh yếu tố giống (mạ và thâm canh mạ: “Tốt giống, tốt má, tốt mạ, tốt lúa”) và cuối cùng là phải “cần”: thường xuyên chăm sóc, làm cỏ, phòng trừ dịch hại...
Thưa mạ tốt lúa: Cấy thưa thì tốt lúa.
          Giải thích như vậy là Nguyễn Cừ không phân biệt được mạ với lúa khác nhau thế nào. Càng không hiểu gì về kinh nghiệm sản xuất của nhân dân. Vì mạ là mạ, lúa là lúa. Đang là cây mạ, (nằm trong bó mạ, hoặc tảng mạ xúc), ngắt ra vài ba dảnh, cấy xuống đã được gọi ngay là khóm lúa, không ai gọi là mạ nữa. Bởi vậy, “thưa mạ” không thể hiểu là “cấy thưa” được.
          “Thưa mạ” ở đây là mạ được gieo thưa, có đủ ánh sáng và chất dinh dưỡng, đanh dảnh, cứng cây; khi đem cấy, lúa sẽ nhanh bén rễ hồi xanh, đủ điều kiện chống chọi với thời tiết bất thuận (giá rét vụ xuân và nắng nóng ở vụ mùa) sinh trưởng nhanh, kháng sâu bệnh (Đúng như câu tục ngữ chúng tôi đã dẫn ở trên: Tốt giống, tốt má; tốt mạ, tốt lúa). Ngược lại, nếu mạ gieo quá dày, thiếu ánh sáng, dinh dưỡng, dảnh mạ bị lướt, ốm yếu; khi đem cấy dễ bị chết rét, chết do nắng nóng hoặc còi cọc, sâu bệnh dễ xâm nhập gây hại. “Thưa mạ tốt lúa”là vậy.
Chiêm khô mùa thối:Ý nói, vụ chiêm mà hạn hán, vụ mùa sẽ lụt lội thì năm đó sẽ mất mùa.
Vụ chiêm đã hạn hán, vụ mùa lại lụt lội thì đúng mất mùa “là cái chắc” ! Tuy nhiên, câu tục ngữ không nói như vậy. Tiến sĩ Ngữ học Nguyễn Đức Dương trong “Từ điển tục ngữ Việt” cũng hiểu sai câu tục ngữ này. Chúng tôi xin dẫn lại nội dung trao đổi với Nguyễn Đức Dương trong bài “Ai làm hỏng di sản tục ngữ ?” (Từng đăng trên “Quê Choa”Tạp chí Văn hóa dân gian-Viện nghiên cứu văn hóa-Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, số 4-2013) để bạn đọc tham khảo, cũng là để giải thích và trao đổi với Nguyễn Cừ:
“Chiêm khê; mùa thối
(Tình trạng hay gặp ở vùng chiêm trũng là đất gieo trồng) trong vụ chiêm hay bị khê; trong vụ mùa hay bị thối.
Từ “khê” được Nguyễn Đức Dương giải thích “Khê (Đất phơi ải) chẳng tài nào khô nỏ và tơi xốp nổi (do ít được dãi dầu cùng nắng gió)”. Và chữ “Thối (Đất làm dầm) chẳng tài nào nhuyễn ra nổi (do nước mất hết khả năng ngấm sâu vào đất).
Loại đất cày ải không đủ thời gian hoặc điều kiện thời tiết làm cho khô nỏ, người ta gọi là ải thâm, không ai gọi đất “khê”(Ải thâm không bằng dầm ngấu) Nếu đất “không tài nào nhuyễn ra nổi” nguyên do “nước mất hết khả năng ngấm sâu vào đất” thì sao gọi là “thối” được ?
Thực ra câu tục ngữ “Chiêm khê, mùa thối” nói về khó khăn của vùng đất không chủ động được tưới tiêu.Vụ chiêm (gắn với mùa khô) chỉ trông chờ vào nước trời, nên đất đai, cây trồng thường bị “khê” - khô cháy (“khê” - trong từ cơm khê - cơm bị cháy khét). Vụ mùa (gắn với mùa mưa lũ) hệ thống tiêu nước kém nên đất đai và cây trồng bị ngâm đến thối trong nước lũ. Bởi thế đối tượng mà tục ngữ nói đến ở đây không chỉ là đất gieo trồng (như NĐD giải thích) mà bao gồm cả cây trồng trên đất ấy (cụ thể là cây lúa nước).
Câu tục ngữ “Chiêm khê, mùa thối” chỉ là cách nói hình tượng hơn câu “Chiêm khô; mùa úng mà nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương dẫn ra ngay sau đó. Tuy nhiên, soạn giả lại tìm ra một cách giải thích khác, kèm thêm một cái sai khác: “Chiêm khô; mùa úng(Tiết trời hay gặp) khi làm chiêm là hanh khô (vì ít mưa); khi làm mùa là úng ngập (vì mưa nhiều)”. Theo cách giải thích này, soạn giả đã biến câu tục ngữ nói về nỗi khổ cực của người trồng lúa trên vùng đất canh tác khó khăn thành câu tục ngữ có nội dung nhận xét về đặc điểm “thời tiết hay gặp” của vụ chiêm và vụ mùa” (Trích "Ai làm hỏng di sản tục ngữ” )

Gà lấm lưng:Khi chọi nhau, gà ngã ngửa lưng chấm đất là không còn chọi được nữa.
Gà mái "lấm lưng".
Nguyễn Cừ lại “cù” độc giả rồi ! Chọi gà mà cũng có luật “lấm lưng trắng bụng” như môn vật của người sao? Thực ra câu tục ngữ của Nguyễn Cừ vốn có hình thức đầy đủ là: “Gà lấm lưng, chó sưng đồ”. “Gà lấm lưng” là con gà mái đã đến thời kỳ chịu trống bắt đầu đẻ trứng (nên còn gọi gà nhảy ổ đẻ). Vì con gà trống nhảy lên lưng “đạp mái” nên gà mái mới bị lấm lưng. “Chó sưng đồ” là con chó cái có biểu hiện động dục (“đồ” là bộ phận sinh dục của nó-thời kỳ này còn gọi chó tơ, cầy tơ). “Gà lấm lưng, chó sưng đồ” đều béo, thịt ngon, bởi con vật đã trưởng thành, nhưng không quá già, không quá non.
Gắt như mắm tôm:mắm tôm để quá kỹ nên có mùi gắt khó chịu, ám chỉ người hay cáu gắt, quát mắng người khác.
Thực ra, mắm tôm “để quá kỹ” hay không quá kỹ đều rất gắt, bởi đặc tính của mắm tôm là vừa mặn vừa nồng, ngon mồm nhưng ghét mũi.                           
Cây sát lá, cá tróc vảy:Kinh nghiệm cây cảnh sát lá mới ra hoa, cá tróc vảy mới sạch.
Câu này Nguyễn Cừ đã đoán sai hoàn toàn so với ý dân gian muốn nói. “Cây sát lá, cá tróc vảy” (Dị bản: Cây chạm lá, cá chạm vảy) là hai điều bất lợi đối với cây trồng, vật nuôi. Bởi cây quang hợp bằng lá, và hút dinh dưỡng bằng bộ rễ. Nếu cây luôn bị động chạm đến lá, dập gẫy lá sẽ ốm yếu, còi cọc, không sinh trưởng được. Vảy cá giống như bộ da, tấm áo giáp giúp cá chống lại sự xâm nhập của các loại vi khuẩn, nấm bệnh trong môi trường nước. Cá bị tróc vảy chậm lớn, dễ sinh bệnh tật. Bởi vậy, còn có dị bản: “Cây chọn mất lá, cá chọn mất vảy”, cây giống lựa chọn, nâng lên đặt xuống nhiều lá sẽ bị dập gẫy, không tốt; cá giống lựa chọn, bắt lên, bỏ xuống nhiều sẽ bị tróc vảy, dễ ốm hoặc chết sau khi thả xuống ao.
Một tiền gà, ba tiền thóc: Bỏ ra ba đồng mới thu về được một đồng. Ví dụ như thu hoạch được một bồ lúa thì phải bỏ ra bao nhiêu công sức như cày cấy giống, má, phân bón và công sức lao động.
Nghĩa đen nằm ngay trong bản thân câu tục ngữ, không hiểu sao Nguyễn Cừ lại đi lấy chuyện cày cấy, chăm bón để ví với chuyện nuôi gà ? Mà so sánh rất khập khiễng.
Nghĩa đen:Nuôi gà không có lãi, vì gà ăn phạm vào lương thực. Tiền gà bán đi chỉ một đồng, vì nhìn thấy được nên tưởng là lãi, tuy nhiên thực tế chi phí thóc để nuôi chúng mỗi ngày một ít, nếu quy ra tiền lại tới những ba đồng. “Một”“ba” là con số tượng trưng cho số ít và số nhiều, tạo sự đối lập. Nghĩa bóng: có thể áp dụng câu tục ngữ cho nhiều trường hợp sản xuất kinh doanh lãi giả, lỗ thật khác.
Tục ngữ, thành ngữ thường lấy các sự vật, hiện tượng xung quanh để làm “giáo cụ trực quan” cho nghĩa đen, qua đó đúc rút kinh nghiệm về quan hệ ứng xử trong gia đình, xã hội. Bởi vậy, người “giải nghĩa tục ngữ” không những cần phải hiểu biết về những “giáo cụ” (đồ vật) đó mà còn phải có hiểu biết về phong tục, tập quán, tâm lý, các mối quan hệ truyền thống trong gia đình, xã hội. Xem ra, về mặt này, Nguyễn Cừ cũng chưa đủ điều kiện để làm sách “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam”:
Nêu cao nhưng bóng chẳng ngay: Cây nêu ngày Tết cao nhưng bóng của nó ngả xuống cong, suy ra con người có quyền cao chức trọng nhưng phẩm cách cũng chẳng ra gì.
Cây nêu ngày Tết
Vì sao “Cây nêu ngày Tết cao nhưng bóng của nó ngả xuống cong” ? Dân gian có câu “Y phục xứng kỳ đức”, đã dám đặt tên sách là “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam”thì phải “giải” cho bạn đọc  hiểu rõ “nghĩa” của nó chứ ?
Cây nêu ngày Tết sở dĩ nó cao nhưng “bóng chẳng ngay” (bóng không thẳng) là vì bản thân cây nêu không bao giờ thẳng. Cây nêu không thẳng vì nó được làm bằng cả một cây tre tươi, phần ngọn cong cong, rủ xuống như cái cần câu. Vậy, cây nêu tuy cao nhưng thân không thẳng, thân không thẳng thì bóng chẳng ngay. Ở đây dân gian còn chơi chữ ở hai từ “nêu cao”: ai đó ở vị trí bề trên, ra điều muốn “nêu cao” phẩm giá làm gương cho người khác, nhưng bản thân mình lại chẳng ra gì !
Mồng ba ăn rốn, mồng bốn ngồi trơ: Tháng tư là tháng giáp hạt, nếu tháng ba không ăn dè sẻn thì tháng tư sẽ bị đói.
Tục ngữ đang nói chuyện “mồng”, sao Nguyễn Cừ lại đổi sang “tháng” ? Dân ta có câu cửa miệng: “Ba ngày Tết” hoặc “Đói giỗ cha, no ba ngày tết”...Làm lụng vất vả quanh năm, Tết đến, nhà ai cũng cố gắng no đủ. Nhưng, con cháu hay ông bà tổ tiên, người sống cũng như người đã khuất cũng chỉ đủ đầy, hương khói trong ba ngày Tết. Ngày mồng ba là ngày cuối cùng của ba ngày Tết, nên gọi “ăn rốn”, bánh chưng, giò chả gì đó cũng “tổng vét”. Sang mồng bốn, “ngồi trơ”, coi như trở lại ngày thường, hết Tết. Không chỉ “ngồi trơ” vì không có cái gì ăn, mà còn “ngồi trơ” vì công việc đồng áng đã làm xong trước Tết cả. Câu tục ngữ phản ánh phong tục tập quán, cũng là điều kiện kinh tế, vật chất thời kỳ bấy giờ. (Dị bản: Mồng ba ăn rốn, mồng bốn ngồi không)
Đi đâu chẳng lấy học trò, thấy người ta đỗ thập thò mà trông:Cảnh học trò xem kết quả thi.
Nguyễn Cừ cho rằng “cảnh học trò xem kết quả thi” là cách giải thích vừa qua loa, đại khái vừa không đúng.
Thực ra đây là câu ca chế giễu cô con gái nào đó, trước kia không để ý gì đến anh học trò nghèo (có khi chê học trò “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”), nay thấy người ta đỗ đạt, được “Vinh quy bái tổ” về làng thì “tiếc của” thập thò đứng trông. “Thập thò” ở đây thể hiện tâm trạng vừa tò mò, nuối tiếc, vừa xấu hổ, vì nhớ đến chuyện xưa. Nghĩa bóng có thể áp dụng cho nhiều trường hợp: chê trách hoặc chế giễu ai đó vì thờ ơ mà bỏ lỡ mất cơ hội tốt, đến khi nhận ra, nuối tiếc thì đã muộn.
Vắng trẻ quạnh nhà, vắng đàn bà quạnh bếp: Không có trẻ con nhà hiu quạnh, không có đàn bà bếp lạnh tanh. Ý nói tình cảm gia đình phải có đông đủ già trẻ, trai, gái mới vui.
Nghĩa bóng câu này nhằm đề cao vai trò người phụ nữ trong gia đình. Họ không chỉ là người giữ lửa trong căn bếp mà còn giữ cho không khí gia đình luôn nồng ấm. Giải thích “phải có đông đủ già trẻ, trai, gái mới vui”, e rằng chung chung quá.
Xưa kia ai cấm duyên bà, bây giờ bà già bà cấm duyên tôi:Lời oán thán của người con gái muốn lấy chồng nhưng không được người trong gia đình ủng hộ mà ngược lại chê bai, thậm chí cấm đoán.
Trước đây chỉ có chuyện “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, làm gì có chuyện “người con gái muốn lấy chồng” lại bị gia đình “chê bai, thậm chí cấm đoán”. Mà nhân vật trong câu tục ngữ xưng “tôi”, gọi “bà” kia mà ? Thực ra, nghĩa đen tục ngữ nói đến một trường hợp rất cụ thể: Cô con dâu (tôi) là góa phụ, muốn “đi bước nữa” (tái giá), nhưng bị (bà) mẹ chồng ngăn cấm. Tuy nhiên, xưa kia khi còn trẻ, gặp chuyện “nửa đường đứt gánh”, chính bà mẹ chồng cũng từng tái giá. Ấy thế nên cô con dâu góa chồng mới “vặn” lại mẹ chồng: Xưa kia, chính bà đã từng muốn tái giá như tôi (và thực tế bà đã tái giá), không bị  ai ngăn cấm, sao bây giờ tôi muốn “đi bước nữa” như bà từng đi, lại bị bà ngăn cấm ? Cái hay của câu tục ngữ ở cụm từ “bây giờ bà già”. Vì bà đã già, bà không còn lửa lòng, khát vọng của tuổi trẻ nữa nên bà mới ngăn cấm người khác một cách ích kỷ. Nghĩa bóng và cách dùng rộng hơn: Bản thân mình từng mong muốn hoặc làm việc gì đó không bị ai cấm đoán, bởi vậy, nếu người khác cũng có mong muốn giống mình thì không nên ích kỷ cấm đoán.
Chùa nát nhưng có Bụt vàng, tuy rằng miếu đổ thành hoàng còn thiêng:Quan hệ trong gia đình dòng tộc, mất người này còn người khác, mất cha còn mẹ, mất anh còn em. Khẳng định dòng tộc gia đình mãi mãi tồn tại.
Câu này, Nguyễn Cừ đã lạc đề. Xin tham khảo một số dị bản và cách giải thích của “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam”-Vũ Dung-Vũ Thuý Anh-Vũ Quang Hào-NXB Văn hóa-2000 (sau đây gọi Vũ Dung): “Đất sỏi có chạch vàng [Cá khô có trứng; Chùa đổ có Phật vàng; Chùa rách có Bụt vàng; Chùa rách Phật vàng; Chùa đất Phật vàng] Nơi nghèo nàn, khó khăn lại nảy sinh người tốt, của quý”.
Đánh bẫy còn chê đực cái: ý nói về anh em đâu được lựa chọn cũng như: Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nhà nghèo, dẫu thế nào cũng là anh em.
Không hiểu sao Nguyễn Cừ lại có thể liên tưởng đến chuyện lựa chọn anh em ở đây được ? Bởi vì, nghĩa đen của câu tục ngữ là: một người nào đó đặt bẫy bắt muông thú, mong muốn sẽ được con đực (hoặc con cái). Tuy nhiên, khi bẫy sập, con thú nằm trong bẫy lại không như hy vọng. Thế là chê ỏng chê eo ! Nghĩa bóng: trong hoàn cảnh có được điều gì đó do may mắn thì không nên kén cá chọn canh.
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An: Ca tụng các cô gái Hà thành kinh đô thanh tao, lịch sự.
Thực ra, câu này ca ngợi, khẳng định “chất” thanh lịch của người Tràng An (Kinh đô) chứ không chỉ riêng các “cô gái Hà thành”.
Cổ cao ba ngấn: Nét đẹp của con gái đài các, giàu có.
Câu này chỉ được xem là ngữ danh từ, chưa đủ tiêu chuẩn để gọi là tục ngữ hay thành ngữ. Hơn nữa, đây cũng không phải “Nét đẹp của con gái đài các, giàu có”mà là quan niệm về cái đẹp của con gái từ ngày xưa : cổ cao, thanh tú, ba ngấn khỏe mạnh (cũng là phúc tướng).
Cá chậu chim lồng:Cá, chim nuôi làm cảnh, trái với môi trường tự nhiên.
Câu thành ngữ này phải được giải thêm nghĩa bóng: cuộc đời bị giam hãm, tù túng, có khi đủ đầy, nhàn hạ nhưng không có tự do.
Cá gặp nước, rồng gặp mây: Sinh vật cũng rất cần môi trường tự nhiên đúng như thiên nhiên mà nó sinh sống.
Câu này Nguyễn Cừ mới hiểu nôm na theo nghĩa đen. Nghĩa bóng phải được hiểu: gặp được cơ hội, môi trường thuận lợi, phù hợp để phát triển năng lực.
Cá không ăn muối cá ươn: Thực tế tự nhiên khi cá bị ươn (chết đã lâu) ướp muối không ngấm vào thịt cá được, cũng như con người can bảo khuyên nhủ mãi không nghe sao cũng có ngày tai họa.
Xin lưu ý, tục ngữ nói “Cá không ăn muối cá ươn”, diễn giải: Cá không ăn (không được ướp muối) thì cá sẽ bị ươn, chứ không phải “Cá ươn cá không ăn muối” diễn giải: cá ươn là cá không ăn (ướp muối) được. Nguyên câu tục ngữ là: “Con không nghe lời mẹ cha, cá không ăn muối cá ươn”. Nghĩa đen: ướp muối là cách bảo quản cá rất tốt. Khi được ướp muối, cá tươi lâu hơn, sau đó cá phân hủy thành mắm thơm ngon, chứ không bị thối, bị ươn, bỏ đi. Nghĩa bóng: Con cái không nghe lời dạy bảo của mẹ cha cũng giống như con cá không được ướp muối, sẽ bị ươn, thối rữa, thành đồ bỏ đi chứ không có ích gì, đến lúc ấy thì đã muộn.
Cá mạnh về vây: Cá dùng vây vừa làm bánh lái, vừa tạo sức mạnh bơi nhanh. Cá có bộ vây tốt chính là cá khỏe. Nhiều loại cá có vây rất quý, ví dụ như con cá mập to vậy cũng chỉ quý nhất là bộ vây ăn ngon và chữa được nhiều bệnh tật.
Nguyễn Cừ đã giải nghĩa đúng về sức mạnh của vây con cá theo nghĩa đen. Tuy nhiên, có lẽ tác giả quá thạo về văn hóa ẩm thực nên mới đưa cả món vây cá mập cao cấp ở các nhà hàng vào đây để “giải thích”. Theo đó, nên chữa câu tục ngữ Việt Nam thành: “Cá mập giá trị ở bộ vây” mới hợp chăng ?  Các dị bản: Cá mạnh về vây hay Chim có cánh, cá có vây; Chim mạnh về cánh, cá mạnh về vây, đều ý nói: mỗi người có thế mạnh riêng, sở trường riêng của mình để hoạt động, tồn tại.
Vợ dại không hại bằng đũa vênh: Đôi đũa cái ngắn cái dài là tối kỵ, suy ra vợ chồng cũng vậy, phải bằng nhau, ngang nhau mới hạnh phúc.
Câu này, Nguyễn Cừ đã hiểu sai nghĩa của từ “vênh”.“Vênh” đây là cong vênh của chiếc đũa chứ không phải sự dài ngắn của đôi đũa. Vì cong, vênh nên đũa mới khó gắp. Nếu cái dài cái ngắn vẫn gắp được như thường. Vũ Dung đưa thêm một dị bản “Vợ dại không hại bằng đũa cong” và giải nghĩa: “Đũa cong vênh khó gắp”.
Tham khảo thêm nghĩa đen: Chuyện đũa vênh bây giờ thật khó tưởng tượng. Tuy nhiên, trước đây, cuộc sống thiếu thốn trăm bề, cái bát ăn cũng không có đủ (phải dùng cả bát sứt, bát làm bằng gáo dừa). Đến như đôi đũa (dù có thể tự làm được) cũng chẳng ra đôi đũa. Bởi ngày thường cái ăn còn chưa có, chưa đủ, mấy ai để ý, chăm chút cái bát, đôi đũa cho thật đẹp, thật tốt ? Đến khi có đình đám, thôi thì trăm kiểu đũa, kiểu bát. Chẳng may vớ phải đôi đũa vênh (cong do vót bằng tre non, tre cụt ngọn, có mắt) thì rất khó gắp (tựa người bị cứng tay, hay mới tập ăn bằng đũa hoặc gắp bằng tay trái vậy). Mà ăn đông người, cỗ bàn có hạn, gắp mãi chẳng được một miếng thì chỉ có nước chịu đói, chịu thiệt. Lấy phải vợ dại (vụng về, không khôn ngoan, tháo vát) đã là thiệt thòi vất vả, khổ sở rồi, thế nhưng cũng không hại bằng đũa vênh. Đây là cách nói thậm xưng thường thấy của dân gian, nhằm nhấn mạnh sự thiệt thòi khi ăn bằng đôi đũa vênh.
Chuồn chuồn đạp nước: Chuồn chuồn bị rơi xuống nước đạp mãi cũng không bay lên được, cũng như con người yếu đuối làm mãi việc gì cũng chẳng xong, dân gian có câu: “làm như chuồn chuồn đạp nước bao giờ mới xong”.
Chuồn chuồn đẻ trứng vào một chiếc lá 
trên mặt nước.
Dân gian gọi “Chuồn chuồn đạp nước” để chỉ hành động việc làm lớt phớt, qua loa, đại khái của ai đó. Tuy nhiên, nghĩa đen không phải như Nguyễn Cừ giải thích. Gọi là chuồn chuồn đạp nước nhưng thực chất là nó chấm cái đuôi vào cánh bèo, hoặc chiếc lá trên mặt nước (nên còn có dị bản: Chuồn chuồn chấm nước; Chuồn chuồn lẹo nước) mục đích để đẻ trứng trên đó, chứ không phải “chuồn chuồn bị rơi xuống nước”. Ấu trùng chuồn chuồn sống trong bèo, rong rêu, trưởng thành sẽ lột xác hóa thành chuồn chuồn (Thế nên dân gian mới có câu: Biết đâu được tổ con chuồn chuồn)
Dạ cá, lòng chim: Đó là hai thứ không có giá trị, thường làm cá, chim đều bỏ cả bụng, ruột đi, chỉ lấy lại tý gan; ý chê những người lòng dạ nhỏ nhen, như dạ cá lòng chim vậy.
Lại thêm một câu Nguyễn Cừ suy diễn nghĩa đen. Thành ngữ có câu: “Bóng chim, tăm cá” ý nói rất khó dò tìm hai đối tượng này, bởi cá lặn dưới nước, chim bay trên trời. Hình ảnh của cá, của chim còn khó xác định, huống gì là tâm địa của nó. Bởi vậy, “Dạ cá, lòng chim” ý nói tâm địa sâu kín, phản trắc khó lường chứ không phải “hai thứ không có giá trị”“làm cá, chim đều bỏ cả bụng, ruột đi, chỉ lấy lại tý gan”“ý chê những người lòng dạ nhỏ nhen, như dạ cá lòng chim” mà Nguyễn Cừ võ đoán.
Con mắt là mặt đồng cân:Con mắt là quan trọng trong khuôn mặt, mắt thể hiện tính người, mắt làm khuynh gia bại sản nhiều kẻ đa tình, mắt là mặt đồng cân là vậy.
Cách giải thích của Nguyễn Cừ phiến diện, đi quá xa ý nghĩa câu tục ngữ. Bạn đọc có thể tham khảo cách giải nghĩa của Vũ Dung: “Con mắt người ta chỉ nhìn cũng ước lượng được giá trị của vật, người có con mắt tinh đời thoáng qua cũng phân biệt được cái hay, cái dở; Nhìn mắt cũng biết người khôn ngoan hay khờ dại.”
Mặt lầm lầm như tát nước đầm: Khuôn mặt bực tức, lầm lì như nước đầm đục đen lúc tát nước bắt cá.
Xin lưu ý thành ngữ nói “như tát nước đầm”chứ không phải như nước đầm.
Đầm Vân Long-Ninh Bình
Muốn hiểu đúng câu thành ngữ phải xem “đầm” là cái gì đã. Đầm thường được hiểu là một vùng trũng, rộng lớn, nước sâu, luôn có nguồn cấp nước, dùng để giữ nước, nuôi cá, thả sen (đầm sen) hoặc bỏ hoang (đầm Dạ Trạch-Hưng Yên). Đầm nước lợ có khi cực rộng, được cấp nước bởi các nhánh sông nhỏ, thông ra biển (như đầm Ô Loan-Phú Yên). Nói chung, đầm thường lớn và không có bờ kín như ao hồ. Bởi vậy, việc tát nước đầm là công việc rất khó nhọc, tưởng như vô vọng. Tát nước trong tình trạng không biết bao giờ cho nó cạn; vơi tí nào, nguồn nước từ mương máng, kênh rạch lại chảy vào thì vui vẻ thế nào được ? Thế nên còn có dị bản: “Mặt lầm lầm tát nước đầm không cạn” (Việt Nam tự điển-Hội khai trí tiến đức)

Thành ngữ tục ngữ Việt Nam có nhiều câu gốc Hán. Mà thành ngữ, tục ngữ gốc Hán lại hay xuất phát từ một tích truyện nào đó. Bởi vậy, người “giải thích tục ngữ Việt Nam” cần phải có kiến thức sâu rộng, đọc nhiều, tham khảo nhiều và ít nhất cũng phải có chút ít kiến thức về Hán Nôm. Tuy nhiên, dường như Nguyễn Cừ không chỉ "yếu" về mảng tục ngữ thuần Việt mà còn thiếu hụt khá trầm trọng kiến thức, hiều biết về tục ngữ, thành ngữ gốc Hán. Bởi vậy, có những câu Nguyễn Cừ “mù tịt”, giải thích theo kiểu “ võ đoán”, trong khi điều đó lại đã được bạn đọc phổ thông hiểu rõ, hoặc được giải thích cặn kẽ trong rất nhiều cuốn sách xuất bản cách nay hàng chục năm rồi.Ví dụ:
Cá chép, hóa rồng: Loại cá chép to, sống lâu năm có vẩy to vàng như vẩy rồng, lúc mắc lưới kêu ộp ộp như động vật trên cạn, khi bắt được những con này ngư dân thường thả trở lại để hy vọng nó hóa thành rồng.
Phù điêu Cá chép hóa rồng
Đây là thành ngữ, Nguyễn Cừ nhận lầm tục ngữ và hiểu sai về cấu trúc (không có dấu phẩy chia làm hai vế). Mặt khác, trí tưởng tượng phong phú của Nguyễn Cừ đã đem đến cho thành ngữ một nghĩa đen khó chấp nhận. Sự tích “Lý ngư hóa long” (Cá chép hóa rồng) được truyền tụng khá phổ biến trong dân gian. Đại khái: Trời sai rồng làm mưa chống hạn, nhưng số lượng rồng trên trời không đủ. Trời mở cuộc thi cho các loài tôm cá vượt Vũ Môn, truyền rằng: nếu con nào vượt được ba bậc thác Vũ Môn sẽ hóa thành rồng. Rất nhiều loài cá đã tham gia. (Ví như họ nhà tôm tràn trề hy vọng vào tài búng nhảy trên mặt nước, đã vượt đến bậc thứ 3 của thác, nhưng không qua nổi, ngược lại bị ngã đau tới mức ruột gan lộn cả lên đầu, suýt chết). Duy chỉ có cá chép vượt được ba bậc và hóa thành rồng, bay vút lên mây.
Tham khảo:Cá vượt Vũ môn [Cá chép hóa rồng; Cá gáy hóa rồng; Cá hóa rồng, Cá lý hóa long] Người học trò thi đỗ đạt vinh hiển; Người được thỏa chí, toại nguyện, thành đạt.
Theo truyền thuyết, ở đất Tứ Xuyên, Trung Quốc, chỗ sông Trường Giang đổ vào chân núi có vực nước sâu do vua Vũ đào để trị thủy nên cũng gọi là ba tầng cửa Vũ hoặc Vũ môn, hay Long môn, nếu loài cá nào vượt qua được ba vực này thì hóa rồng. Hàng năm vào ngày 1, 11, 21 tháng 7 âm lịch mưa to gió lớn, các loài cá về đây để cùng nhau thi vượt Vũ môn. Trong các loài cá, chỉ có cá chép lớn ở Nam sông Thanh Lãnh vượt được cửa Vũ ra biển hóa thành rồng, gọi là Xích long. Phận gái lấy được chồng khôn, Xem bằng cá vượt Vũ Môn hóa rồng (ca dao)” ( theo Vũ Dung-sách đã dẫn)
Có lẽ nhìn bề ngoài, cá chép là loài cá đẹp, lại có hai đặc điểm rất giống với hình tượng rồng: râu rồng, vảy rồng nên dân gian đặt ra câu chuyện này chăng ?
Hà Đông sư tử:Vùng đất nhiều phụ nữ hay ghen.
Lại thêm một câu Nguyễn Cừ “giải nghĩa”qua loa cho xong chuyện. Không biết vùng đất “nhiều phụ nữ hay ghen” Hà Đông nằm ở đâu ? Có phải chính là Hà Đông-vùng đất thuộc Hà Tây cũ ?
Đây là câu thành ngữ được dùng rất phổ biến với ý chỉ người đàn bà hay ghen tuông lồng lộn, ầm ĩ. Tích “Hà Đông sư tử” được rất nhiều sách dẫn. Ở đây xin dẫn “Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán” (Như Ý-Nguyễn Văn  Khang-Phan Xuân Thành-Viện ngôn ngữ-NXB Văn hóa-1994): Trần Tạo, tự Lý Thường, tự xưng Long Khâu tiên sinh, rất hiếu khách, có vợ là Liễu thị rất hay ghen. Bởi vậy khi thấy các vũ nữ cùng bạn bè đến chơi thăm chồng thì nổi cơn tam bành, đập phá, làm ầm ĩ. Tô Đông Pha, bạn của Trần Tạo, biết chuyện này đã làm thơ tặng bạn: “Long Khâu cư sĩ diệc khả liên, Đàm không thuyết hữu, dạ bất miên, Hốt văn Hà Đông sư tử hống, Trụ thượng lạc thú, tâm mang nhiên” (chữ “lạc thú” có lẽ chính phải là “lạc thủ”, vì “lạc thủ” mới có nghĩa là rơi, tuột gậy khỏi tay, có lẽ do sách này in sai ?-HTC chú thích) Nghĩa là: Cư sĩ Long Khâu thật đáng thương, Đọc kinh suốt canh thâu không ngủ, Bỗng nghe tiếng sư tử Hà Đông rống, Chiếc gậy rơi khỏi tay, lòng hoang mang kinh sợ. Hà Đông là tên quận thời cổ, nơi ở của họ Liễu, một gia tộc nổi tiếng của quận này từ thời Ngụy Tấn đến Tùy Đường, ở đây chỉ Liễu thị, Sư tử hống(sư tử gầm) nhà Phật thường lấy hình ảnh này biểu thị uy nghiêm. Mà Trần Tạo lại hay tụng kinh niệm Phật, nhà thơ mượn hình ảnh này với ý trêu cợt".
Về sau “Hà Đông sư tử” trở thành thành ngữ chỉ người phụ nữ hay ghen dữ, nhưng không ám chỉ vùng đất cụ thể nào.
 Cáo giả oai hùm:Nhiều con cáo già to không kém gì con hổ con, lúc bị tấn công cũng nhe răng xù lông co mình lại, nhiều thợ săn tưởng nhầm là hổ, sợ bỏ chạy. Câu này xuất phát từ hiện tượng tự nhiên để nói ai đó hay dùng tiếng tăm của người khác, mượn danh người có chức quyền để dọa dẫm người khác.
Minh họa "Hồ giả hổ uy" trên một con tem
 thời Trung Hoa dân quốc
Một lần nữa, chúng ta lại phải ngả mũ trước tài suy đoán, trí tưởng tượng phong phú của Nguyễn Cừ. Trong suy nghĩ của dân gian, sức mạnh của con cáo (đặc biệt là cáo già) là sự tinh khôn, ranh mãnh chứ không ở phải nanh vuốt, sự dữ tợn của nó. Câu thành ngữ “Cáo giả oai hùm”gốc Hán là “Hồ giả hổ uy”. Theo Từ điển thành ngữ Việt Nam-Viện ngôn ngữ học: "trong Chiến quốc sách: “Sở Tuyên vương hỏi quần thần: Dân ở phương Bắc sợ Chiêu Hề Tuất là vì lẽ gì ? Giang Ất tâu: Khi con cáo đi sau con hổ, các muông thú đều bỏ chạy. Hổ lại tưởng muông thú sợ cáo nhưng thực ra là sợ hổ. Cũng vậy, dân phương Bắc đâu có sợ Chiêu Hề Tuất mà chính là sợ  binh giáp của hệ hạ mà thôi.” (Nguyên trong sách của Viện ngôn ngữ nói là "con chồn" HTC sửa lại là con cáo). Lời tâu của Giang Ất lại vận dụng câu chuyện ngụ ngôn: Hổ đói bắt được một con cáo, định xé xác ăn ngay cho bõ cơn thèm. Dưới nanh vuốt hổ, cáo già run rẩy thầm nghĩ, phen này chắc chết. Nhưng vốn là kẻ nổi tiếng tinh quái, cáo cố trấn tĩnh nói cứng: “Dĩ nhiên là ngươi không dám ăn thịt ta rồi. Bởi thượng đế vừa phái ta xuống hạ giới để làm đầu lĩnh muôn loài.” Con hổ lớn xác,bụng đang rất đói, lại nghe nói vậy thì rất tức giận. Tuy nhiên hổ cũng dừng tay, nửa tin nửa ngờ. Cáo không bỏ lỡ cơ hội:  “Nếu ngươi vẫn chưa tin, bây giờ ta sẽ đi trước, ngươi theo sau, bách thú nhìn thấy ta sẽ hoảng sợ bỏ chạy hết cho mà xem.” Quả nhiên, cáo đi đến đâu, muông thú đều hoảng hốt, cúp đuôi chạy trốn. Hổ đành phóng thích cáo già, trong lòng thắc mắc không nguôi. Hổ không hề biết rằng: các loài thú bỏ chạy là do sợ hổ chứ không phải sợ cáo (HTC kể)
Như vậy, do không nắm được nguồn gốc câu thành ngữ nên Nguyễn Cừ đã cố tìm ra nghĩa đen không hề ăn nhập gì với “Cáo giả oai hùm”. Nhưng, dù sao bạn đọc cũng cảm ơn câu chuyện “Cáo già và người thợ săn” thật hài hước của Nguyễn Cừ !
Gái tơ, ngứa nghề: Chê cười gái mới lớn mà đã lăng nhăng, lẳng lơ.
Câu này vốn trong “Truyện Kiều”, đoạn Tú bà đay nghiến Kiều: “Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao”. Dẫu sau này được dân gian dùng như một thành ngữ, cũng không thể hiểu như Nguyễn Cừ, nhằm chỉ chung “gái mới lớn mà đã lăng nhăng, lẳng lơ” được. Bởi ở đây có chữ “nghề”. “Nghề” ở đây không gì khác là đĩ điếm, kỹ nữ-một nghề kiếm tiền.
Phụ phu song toàn: Được cả cha lẫn mẹ đều là người tốt, trường thọ. Ngày xưa khi đi chọn vợ chồng cho con cái thường hay nói: Nhà này bố mẹ song toàn là vậy.
“Phụ” là vợ, “phu” là chồng. Nếu quả đúng Việt Nam có câu “tục ngữ”: “Phu phụ song toàn” như Nguyễn Cừ viết thì nghĩa của nó là: được cả vợ lẫn chồng, sao bỗng dưng lại thành “được cả cha lẫn mẹ” ? Nếu “được cả cha lẫn mẹ” phải là “Phụ mẫu song toàn” mới đúng ! Tuy nhiên “Phụ mẫu song toàn” lại thường được dùng với nghĩa là niềm vui sướng, hạnh phúc của ai đó khi cha mẹ già đều song thọ, song toàn chứ không phải là bố mẹ vợ hoặc bố mẹ chồng đều “được cả”.
 Phụ trái tử hoàn, tử trái phụ bất can: Câu này lấy từ nguồn Hán học, dịch tạm là: cha mẹ làm sai con cái trả, con cái làm sai cha mẹ không phải trả.
Câu này tác giả đã nói rõ là “dịch tạm”chứ không phải “tạm dịch”. Tuy nhiên, dù có “dịch tạm” đến đâu chăng nữa cũng không nên hiểu chữ “trái” nghĩa là nợ thành “trái”sai trái.
Tri túc bất nhục: Biết hiểu nhiều không ai bắt nạt được.
Lại một kiểu giải thích nôm na, võ đoán.
“Tri túc” đây không phải là “biết hiểu nhiều” mà là biết thế nào là đủ. Câu tục ngữ gốc Hán này vốn là câu nói của Lão tử: “Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi” nghĩa là: Biết thế nào là đủ thì không phải chịu khổ nhục, biết dừng đúng lúc thì không bị nguy khốn. Trong thực tế, nhiều người do tham lam (của cải, tiền tài, danh vọng, địa vị) không biết thế nào là đủ, rốt cuộc phải chịu nhận lấy khổ nhục. 
        Ta có thể lấy ví dụ: ông Hồ Xuân Mãn - Bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế đã lên tới tột đỉnh danh vọng, phú quý một phương. Nhưng do ông Mãn không biết thế nào là “mãn”, không “tri túc”, “tri chỉ” nên đã khai man hồ sơ để có thêm danh hiệu “Anh hùng”. Rốt cuộc, thay vì tột đỉnh vinh quang, ông Mãn đã phải chịu tột cùng khổ nhục ! Hoặc có những đại quan đáng ra danh vọng, tiền tài có cả, vẫn được tiếng thanh liêm, nhưng bỗng chốc trở thành tham quan, vướng vòng lao lý. Nguyên nhân không gì khác ngoài chuyện “bất tri túc” !
        Ngay như trong chuyện làm sách cũng vậy, phải biết "tri túc, tri chỉ", không nên vì chút danh tiếng "Nhà" này, "Chuyên gia" nọ, muốn ghi danh với đời mà đem cái không biết để dạy cho người biết...Ví như nếu cụ Nguyễn Lân "tri túc", hãy cứ là Nhà giáo nhân dân, đừng cố thêm cái "GS" hoặc "Nhà biên soạn từ điển vô địch", 90 tuổi còn cặm cụi làm "Từ điển từ và ngữ Việt Nam" để đời; giá như Lê Xuân Đức "tri túc", làm một Giáo viên dạy văn cấp III hoặc ông Đại biểu Quốc hội cho tốt, đừng tham cái danh "Chuyên gia số 1 về thơ Bác" hẳn sẽ chẳng phải khổ sở đạo văn, "chữ tác đánh chữ tộ", 40 năm nghiên cứu thơ Bác, để cuối cùng chịu điều tiếng mà Lão tử đã cảnh báo hàng ngàn năm trước !
Trong đời con người, hàng ngày, hàng giờ, chuyện “tri túc, tri chỉ” rất cần được cân nhắc trong từng cử chỉ, hành động. Ấy chính là lời cổ nhân muốn nhắn gửi trong lời dạy: “Tri túc bất nhục”, không phải "Biết hiểu nhiều không ai bắt nạt được" như Nguyễn Cừ hiểu lầm !

                                                            HTC 25/7/2014

Hết phần II, 
Mời bạn đọc đón xem phần III:
“Chữ tác đánh chữ tộ, tham mà không khảo.”

Ảnh trong trang sưu tầm trên Internet.



Thứ Năm, 24 tháng 7, 2014

Đọc "VỀ LẠI THĂNG LONG"

       
Nhà thơ Trịnh Minh Châu
Ảnh: Blog Bùi Văn Bồng
 TRỊNH MINH CHÂU 


         “Gửi Hoàng Tuấn Công !
Chú Trịnh Minh Châu có viết bài về cuốn sách "Về lại Thăng Long" của cụ Hoàng Tuấn Phổ. Dự định khi in cuốn sách này thì sẽ cho in kèm và sau đó sẽ cho in ở một vài nơi... Nhưng từ khi chú bị bệnh ung thư, tình hình có khác. Hiện nay chú không còn tham gia gì ở ban liên lạc Họ Trịnh. Cụ Trịnh Ngọc Bích đã chết. Ông Trịnh Huy Luân và Huy Trụ làm thay. Do bệnh tật nên chú không muốn tham gia gì, có gặp cũng không trao đổi gì. Nay HTC có Blog vậy chú chuyển bài viết đến Công, thấy được thì cho lên trang nhà, gọi là TMC tri ân với cụ HTP vậy nhé...”(1)
Hình như lâu nay Nhà thơ Trịnh Minh Châu cũng là độc giả của Tuấn Công thư phòng ? Nay xin trân trọng giới thiệu tới bạn đọc bài viết, và cảm ơn Chú Trịnh Minh Châu đã gửi bài cho TCTP. Xin được chia sẻ hoàn cảnh của Chú, chúc Chú mạnh khỏe, chiến thắng bệnh tật !
                                                                          TCTP

Đọc "VỀ LẠI THĂNG LONG"
                       ( Truyện lịch sử của  Nhà văn Hoàng Tuấn Phổ )

Sau mười một tập truyện viết về đề tài lịch sử, ở tuổi 75 nhà văn Hoàng Tuấn Phổ lại cho ra mắt tiếp truyện lịch sử viết về một thời kỳ khá đặc biệt, thời kỳ phù Lê diệt Mạc và xây dựng nước Đại Việt của các chúa Trịnh. Hay nói khác  là thời kỳ Lê - Trịnh, hay thời kỳ Lê trung hư­ng. Từ Sóng nư­ớc Cổ khê, Ngàn nưa, Vua Lê Đại  Hành,  Miếng võ gia truyền, Vư­ợt ngục Thành Tây đô, Mai vàng chùa tháp, Hiển khánh Vư­ơng Trịnh Khả, Chúa Trịnh (tập 1 ), Giấc mộng Ngai vàng, Trịnh - Nguyễn tranh hùng và Tư­ớng công Hoàng Đình Ái. Đều diễn ra trên đất Thanh hoá hoặc chủ yếu ở Thanh hoá. Sáu truyện trư­ớc viết về các nhân vật lịch sử chống ngoại xâm, bốn truyện sau viết về các nhân vật lịch sử người Thanh Hoá trong các thế lực tranh giành ngôi vị đế vư­ơng của đất nư­ớc.
Trong truyện :Về lại Thănh Thăng long nhà văn tập trung sắp xếp văn bản để tái tạo lại thời kỳ Lê Trung h­­ưng. Nhà văn không sử dụng lối viết theo cách nhiều người vẫn sử dụng đó là tiểu thuyết hoá trong sáng tác về đề tài lịch sử mà kể lại một cách dung dị. Qua truyện, người đọc nhận ra các nhân vật như vốn có của nó đã từng đôi lần được nghe kể trong dân gian . Lối viết này tưởng đơn giản, nhưnh thực ra lại rất khó khăn, bởi vì  phải nghiên cứu, nghiền ngẫm, tích luỹ rất nhiều tài liệu về lịch sử chính thống, gia phả các dòng họ, và các văn bản khác trong nhiều năm, thậm chí cả một đời người. Mặt khác chính bút pháp ấy không cho nhà văn phóng bút bình luận theo ý thức chủ quan mà để cho tính cách nhân vật bằng hành động của họ theo dòng sự kiện lịch sử hiện lên giản dị và chân thực. Bên cạnh đó khi nêu tên nhân vật, viết các sự kiện thuộc về lịch sử rất dễ đụng chạm đến lòng tự  ái của hậu duệ các nhân vật cũng như  các nhà nghiên cứu lịch sử, các nhà nghiên cứu văn hoá...Tuy nhiên HOÀNG TUẤN PHỔ vẫn là HOÀNG TUẤN PHỔ .Vượt qua những trở ngại đó Nhà Văn vẫn đem đến cho người đọc những trang viết được kết hợp giữa tài văn chương với sự chân thực lịch sử và kiến thức văn hoá sâu rộng, phần nào đã thoả mãn được nhiều đối tượng đọc giả.
Về lại Thăng Longthuộc loại truyện chí có vấn đề qua từng sự kiện lịch sử  được sắp xếp lô-gích, gia công sinh động hoặc tiểu thuyết hoá . Đây là bút pháp ngày nay các nhà văn hiện đại rất ít sử dụng. Nhưng với đề tài lịch sử lại rất đắc dụng, bạn đọc dễ dàng theo dõi diễn biến của câu chuyện mà nhà văn sắp xếp.
    Khi đọc Về lại Thăng Long người đọc dễ nhận ra một Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm ông tổ của các chúa Trịnh, với tài văn võ song toàn, khi được Hưng quốc công tuyển chọn và sau này tiến cử nắm binh quyền thay mình đã xứng đáng với lòng tin của người giao phó. Trong lúc, bên ngoài Nhà Mạc, sau khi tiêu diệt Nhà Lê đã nắm được gần như trọn vẹn đất nước, bên trong với chiêu bài phù Lê diệt Mạc cũng không ít chông gai. Đứng mũi chịu sào trước một nghĩa binh đang còn phôi thai non yếu, các tướng không ít người xuất thân từ các gia tộc khanh tướng, công hầu, đầy lòng tự trọng cũng như đố kỵ ..không dễ gì tôn phục một người xuất thân từ  một nông dân bình thường. Nhưng với vốn võ nghệ và kiến thức nho học được ông cậu Hoàng cữu truyền dạy với tư chất thông minh Trịnh Kiểm đã xây dựng thành công một “Nhà Lê” dần phát triển, có lực lượng qui mô đánh đông dẹp bắc...
Ngoài hình ảnh của Trịnh Kiểm, nhân vật Hoàng Đình Ái, Phạm Đốc cũng được nhà văn dành cho tình cảm trân trọng qua từng trang viết.
Các tướng: Phạm Đức Kỳ, Vũ Sư Thước, Lại Thế Khanh, Hà Thọ Lộc, Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan, học sĩ Lương Hữu Khánh...những khai quốc công thần của nhà Lê Trung Hưng qua ngòi bút của tác giả, người đọc cảm thấy hiện hữu gần gũi, họ đi chiến trận với lòng trung nghĩa, chân thật như bản tính vốn có của người nông dân, thuỷ chung với sự nghiệp đã chọn. Có lẽ đây là nguồn gốc sức mạnh chiến thắng sau này để trở lại Thăng long.
  Các nhân vật đối kháng, nguyên nhân của cuộc chiến tranh đẫm máu kéo dài trên sáu mươi năm, điển hình là Mạc Đăng Dung và con, cháu, hậu duệ của ông ta. Từ khi giết  vua Lê Chiêu Tông, giam chết mẹ con Cung hoàng...ngòi bút nhà văn vẫn bình tĩnh như một sử gia. Đặc biệt nhân vật Mạc Kính Điển làm tướng suốt đời, đánh đông dẹp bắc cố giữ  ngai vàng ông cha cướp được từ nhà Lê cho đến khi qua đời.
          “Tháng 10 năm ấy, Khiêm vương Mạc Kính Điển qua đời, cả triều đình Mạc đều dao động, tướng sĩ lo lắng, người hai cõi Giang đông và Giang tây xôn xao bàn tán.”   
Không rõ lúc ấy nhân dân bàn tán gì? Nhưng hãy để chính kiến : đúng , sai , tốt , xấu sang một bên thì Mạc Kính Điển là viên tướng có tài, chinh chiến không mệt mỏi, làm tròn bổn phận của kẻ bề tôi, một phẩm chất cần có của người làm tướng.Chính Mạc Kính Điển là tổng chỉ huy các chiến dịch tạo nên những trận đánh ác liệt suốt từ cửa Thần Phù đến tận vùng núi phía tây Thanh Hoá. Đây là lịch sử có thật, đối với nhân dân các địa danh trên Mạc Kính Điển là người có tội,nhưng đối với họ Mạc, Kính Điển là người có công. Tôi đọc Sử ký thấy có  viết “ –Kỷ cương nhà Tần bị đứt, miền Sơn Đông nổi loạn, các miền khác đều nổi lên. Các anh hùng tuấn kiệt họp nhiều như quạ. ...”, “Chó của chích cắn vua Nghiêu không phải vì vua Nghiêu bất nhân, nhưng là chó thì bất kỳ ai không phải chủ của nó là nó cắn”. Thật trớ trêu thay, sau khi Mạc Kính Điển mất, triều đình nhà Mạc bắt đầu suy vong rồi diệt vong, con cháu nuối tiếc cái ngai vàng cha ông cướp được của nhà Lê chạy vạy cầu cạnh nước ngoài nhưng không toại nguyện, sống chui lủi ở vùng sơn cước nhiều năm rồi mới mất hẳn.
    Như vậy để thấy lúc tao loạn thì khó phân biệt đúng sai, Nhà văn của hậu thế không thể lý giải theo ý kiến riêng được.Cái được của nhà văn là tái tạo lại lịch sử bằng văn chương, phần còn lại người đọc sẽ lý giải theo quan niệm của họ. Nhưng lịch sử thì không thể theo quan niệm mà chỉ có đúng và chưa đúng, vậy thì  trung thực là phẩm chất của nhà văn, HOÀNG TUẤN PHỔ  đã làm được điều này !(2)
 Trước khi khép lại cuốn sách là cuộc tấn công mãnh liệt của Triết Vương Trịnh Tùng vào thành Thăng long. Vua tôi Nhà Mạc kẻ bị bắt, người tháo chạy khỏi kinh thành, Nhà Mạc mất, Trịnh Tùng bắt đầu công cuộc xây dựng đất nước. Thời đại này-Lê Trung Hưng kéo dài 248 năm lịch sử .
Đọc tác phẩm văn học nhưng có cảm tưởng như đọc cuốn lịch sử được chi tiết hoá.Người đọc có thể tóm lược được như sau : Mạc Đăng Dung cướp ngôi của nhà Lê, Nguyễn Kim chạy về Thanh Hoá chống lại Mạc Đăng Dung, sau sáu năm mới tìm được người con của vua Chiêu Tông dựng lên ngôi kế nghiệp nhà Lê. Nguyễn Kim được vua giao cho điều binh khiển tướng, Trịnh Duy Thuân nội trị, ngoại giao. Nguyễn Kim mất, Trịnh Kiểm kế nghiệp, Trịnh Kiểm mất, Trịnh Tùng kế nghiệp chống lại Nhà Mạc cho đến toàn thắng.
          Đây là tác phẩm nhà sử học tìm thấy trong đó những tình tiết bổ sung làm sinh động thêm một thời kỳ lịch sử, nhà văn hoá tìm thấy phong tục, tập quán, các địa danh theo tên gọi của người xưa, các sinh viên xã hội học tìm thấy kiến thức bổ sung cho hành trang của mình...người cầm bút khác có thể tìm tư liệu trong đó để viết các tác phẩm có liên quan.
          Thế mạnh của nhà văn là viết cẩn thận chỉn chu, chân thực dung dị nhưng đó cũng chính là cái yếu của nhà văn. Ngòi bút không thể tung hoành, mổ xẻ các sự kiện, các nhân vật để người đọc lắng đọng, ấn tượng về một thời kỳ lịch sử đầy biến động của đất nước. Đôi khi ngẫm ngợi thấy tác giả viết theo lối “ Văn học quan phương”. Nhưng viết về đề tài lịch sử thì quan phương cũng có cái tốt.
          Nói đi thì cũng phải nói lại, trong khi nhiều người chạy theo nhãn mác, danh hiệu nhằm đánh bóng cá nhân trước bạn đọc phổ thông thì HOÀNG TUẤN PHỔ vẫn “ Khép phòng văn hì hục viết”. Có người viết hàng tá sách nhưng khó để lại ấn tượng cho bạn đọc,  HOÀNG TUẤN PHỔ có trên  40 đầu sách thuộc nhiều thể loại, ai cầm cuốn sách của ông cũng muốn đọc một mạch. Về LẠI THĂNG LONG là cuốn sách như vậy . / .  
                                                         TRỊNH MINH CHÂU


Chú thích:
(1)-Trích thư của Chú Trịnh Minh Châu gửi HTC ngày 23/7/2014. Nhà thơ Trịnh Minh Châu là bạn vong niên của thân phụ Hoàng Tuấn Công. Trước đây chú Châu làm Viện trưởng Viện kiểm sát huyện Vĩnh Lộc-Thanh Hoá, sau chuyển xuống Viện kiểm sát tỉnh rồi về hưu. HTC mới gặp chú Châu đôi ba lần, cũng không đọc thơ Chú được nhiều, nhưng thích một số bài thơ trong đó hiện lên hình ảnh những “người ở làng” của Chú. Mời độc giả thưởng thức một số bài thơ của Trịnh Minh Châu theo đường link này: Chùm thơ TRỊNH MINH CHÂU.

      (2) Bản thảo “Về lại Thăng Long” do Hội đồng họ Trịnh Việt Nam hợp đồng với Hoàng Tuấn Phổ viết, kế hoạch sẽ xuất bản vào dịp Kỷ niệm Ngàn năm Thăng Long-Hà Nội. Tuy nhiên, khi bản thảo hoàn thành, phía họ Trịnh “đề xuất sửa chữa, cắt bỏ một số câu, chữ”, tác giả Hoàng Tuấn Phổ không đồng ý, vì cho rằng làm như vậy là không tôn trọng lịch sử:
          “Người viết truyện lịch sử cũng như người viết sử hay nghiên cứu sử đều phải trung thực khách quan, tránh tả khuynh hay hữu khuynh, vì nếu thiếu công tâm, thiên lệch một phía đều không thể thành công. Mặc dù sách “Về lại Thăng Long” do Hội đồng họ Trịnh Việt Nam “đặt hàng”, nhưng“hàng”ở đây, rất tiếc lại là món hàng lịch sử, tất cả đều do sự thật khách quan của lịch sử, không do người “đặt hàng” hay người “làm hàng” muốn thế này hay thế kia mà được ! Nếu tôi bất chấp sự  thật lịch sử, tô vẽ, tâng bốc để làm đẹp lòng mọi người theo sở thích cá nhân của họ chỉ vì đồng tiền họ bỏ ra, thì tôi không còn là Hoàng Tuấn Phổ mà chỉ là một gã “bồi bút” viết thuê cho “ông chủ họ Trịnh” ! Nên biết rằng, mặc dù họ Trịnh bỏ tiền ra nhưng khi sách được in, nó thành tài sản chung, ai cũng có quyền đọc, có quyền đánh giá, phê bình, người họ Trịnh không thể nói rằng đây là sách “đặt hàng” của chúng tôi, dành riêng cho chúng tôi đọc, không ai có quyền đọc, có quyền khen chê !
          Tôi đề nghị bà con, chư vị họ Trịnh nên thận trọng, khách quan khi bình xét một tác phẩm được viết trên quan điểm khách quan lịch sử bằng ngòi bút thận trọng. Các tình tiết khen chê trong tác phẩm tôi đều phải cân nhắc, nâng lên đặt xuống lật đi lật lại: khen họ Trịnh như thế có đúng hay không, chê họ Mạc có gì oan cho họ, có chỗ nào hạ thấp vai trò vua Lê ? v.v…” (Trích thư Hoàng Tuấn Phổ gửi họ Trịnh ngày 3/1/2011).
Rốt cuộc, vì không thống nhất được quan điểm, “Về lại Thăng Long” của Hoàng Tuấn Phổ đến nay vẫn chưa thấy xuất bản và đến tay bạn đọc. Trịnh Minh Châu viết bài này do đọc bản thảo “Về lại Thăng Long” gửi họ Trịnh. (Chú thích của HTC).