CỦA NHÓM PGS-TS HÀ ĐÌNH ĐỨC
Lối vào đền thờ Nguyễn Văn Nghi |
Hoàng Tuấn Phổ
Do nhu cầu thực tế, loại sách Quốc ngữ về “Các nhà khoa bảng Việt Nam” đã được xuất bản nhiều, tiêu biểu có nhóm Ngô Đức Thọ, nhóm Bùi Hạnh Cẩn… Thông thường, sách biên soạn lại, quyển sau phải tiến bộ hơn quyển trước, vì ít nhiều có kế thừa, đồng thời đính chính những sai lầm, thiếu sót của quyển trước. Rất tiếc, gần đây, sách “Những nhà khoa bảng xứ Thanh”của nhóm PGS -TS Hà Đình Đức (NXB Thanh Hóa 2011) không đi theo “luật” thông thường ấy.
Tôi không nghĩ các vị qua loa, tắc trách, chỉ cốt cái danh, mà do thiếu kinh nghiệm, phương pháp, kiến văn, thiếu cả tài liệu xưa nay cần thiết để tra cứu, đối chiếu, tham khảo. Đó là các sách gọi chung là “Đăng khoa lục”, các bia ký tiến sĩ hầu như địa phương nào cũng có… Ở đây, tôi chỉ xin có đôi điều bước đầu nhận xét, góp ý cùng soạn giả.
1. Là tác giả hay soạn giả?
Đứng tên ở vị trí tác giả, như là tác giả của “Những nhà khoa bảng xứ Thanh” , nhóm PGS- TS gồm 3 người. Cái sai bắt đầu ngay ở bìa 1 và bìa 2. Quyển sách nội dung chỉ là chép lại, soạn lại thôi! Hãy xem quyển: “Trạng nguyên, Tiến sĩ, Hương cống Việt Nam ”, NXB Văn hoá Thông tin – 2002, nhóm Bùi Hạnh Cẩn đã đứng đúng vị trí của mình ở bìa 2 (bìa trong), phía dưới tên sách và ghi rõ là “biên soạn”.
2. Tiến sĩ khác gì Phó bảng?
Ở phần một, nhóm Hà Đình Đức viết: “Phó bảng đã được xác định ngay từ khoa thi Hội, đỗ nhưng không công nhận là Tiến sĩ, không được thi Đình, và cũng không vinh quy bái tổ bằng cờ, lọng tía, cân đai nhà vua” (tr.44, 45). Tại sao ở Phần hai khi phân loại, nhóm Hà Đình Đức lại xếp trong loại Tiến sĩ có Phó bảng? Phó bảng là một học vị, chỉ mới đặt ra từ đời Minh Mệnh, lấy người điểm thấp hơn Tiến sĩ, tức là đỗ ở vào vị trí trên Cử nhân dưới Tiến sĩ. Vì thế, tên người đỗ Phó bảng ghi ở một bảng riêng, gọi là phụ bảng (chữ Phó bảng từ chữ phụ bảng mà ra). Nếu ai đó gọi Phó bảng là Tiến sĩ hạng hai cũng không đúng. Vậy, Phó bảng là Phó bảng, một học vị mới của riêng triều Nguyễn, khi phân loại Phó bảng phải đứng riêng một loại dưới Tiến sĩ, không thuộc Đệ tam giáp đồng tiến sĩ.
3. Quê quán các vị khoa cử:
Trong các sách Đăng khoa lục chữ Hán ngày xưa do “tam sao thất bản”, khó tránh khỏi nhiều trường hợp quê quán nhà khoa bảng bị lầm lẫn, sai lạc. Thời nay sách Quốc ngữ căn cứ tài liệu cũ, người biên soạn thường suy đoán, ít bỏ công đối chiếu bi ký ở Quốc tử giám, các văn miếu hàng tỉnh, hàng huyện, các mộ chí, gia phả… xảy ra tình trạng sách sau phủ nhận sách trước mà không cần lý do xác đáng, làm cho sự việc càng thêm rối. Sách “Những nhà khoa bảng xứ Thanh” của nhóm PGS- TS Hà Đình Đức là một ví dụ. Sau đây là một số trường hợp tiêu biểu:
- Nguyễn Văn Nghi, Nhất giáp Chế khoa. Các sách Nhân vật chícủa Phay Huy Chú, Đại Nam nhất thống chícủa Sử quán triều Nguyễn, “Trạng nguyên, Tiến sĩ, Hương cống Việt Nam” của NXB Văn hoá Thông tin, v.v… đều chép thống nhất “quê xã Ngọc Bôi, huyện Đông Sơn”, riêng một mình sách “Những nhà khoa bảng xứ Thanh” (xuất bản 2011), PGS- TS Hà Đình Đức bắt sửa địa danh là “Ngọc Đôi”, kèm theo chú thích hẳn hoi, tỏ ra đã khảo cứu sách nọ, tài liệu kia cẩn thận! Chẳng những thế, nhà khoa học còn đổi luôn thôn Quỳnh Bôithành thôn Quỳnh Đôi ! (PGS- TS không hiểu chữ “Bôi” Hán tự là gì chăng?)
- Hoàng Quốc Thực, Đệ nhị giáp Chế khoa. Sách “Trạng nguyên, Tiến sĩ, Hương Cống Việt Nam” (Nhóm Bùi Hạnh Cẩn) căn cứ tài liệu xưa chép quê quán là “xã Dực Thượng, huyện Quảng Xương”, PGS- TS không chịu, bắt chước sách Danh sĩ xứ Thanh và … chữa chữ “Dực Thượng” thành chữ “Đức Thượng”, cũng đoán mò theo Danh sĩ xứ Thanh là “xã Quảng Đức” và các nhà khoa bảng Việt Nam là “xã Quảng Cát”! Trước hết, xã Quảng Đức, huyện Quảng Xương không có địa danh “Đức Thượng” và xã Quảng Cát cũng vậy.
Quê Hoàng Quốc Thực, khi ông khai báo để đi thi là thôn An Khoái, xã Dực Thượng, huyện Quảng Xương. Thời Nguyễn chữ “Dực” vì kiêng huý Dực tông (tự Đức ) nên đổi “âm” thành “Dặc” (nôm), sau đổi là xã Kính Thượng, rồi xã Cung Thượng. Từ năm 1945 là xã Quảng Cát. Sách “Trạng nguyên, Tiến sĩ, Hương cống Việt Nam ” chép như đã nói là hoàn toàn đúng. PGS- TS Hà Đình Đức sửa thành Đức Thượng là hoàn toàn sai v.v…
4. Chính sử và giai thoại:
Về Trạng nguyện Trịnh Tuệ (Huệ). Việc thi đỗ Trạng nguyên của Trịnh Tuệ đương thời có dư luận nhà Chúa thiên vị. Chuyện này có chép trong chính sử. Nhưng tiếp theo, PGS- TS Hà Đình Đức kể chuyện các quan ra câu đố mang nội dung kinh điển để thử tài Trịnh Tuệ chỉ là câu chuyện dân gian nhằm khẳng định tài năng của Trịnh Tuệ. Đến chuyện Chiếc đũa có chân của một “nữ lưu” trong đám các quan (?) chất vấn Trinh Tuệ, tính giai thoại quá rõ ràng! Nội dung sách Khoa bảng (Đăng khoa lục) phải chép đúng sự thật lịch sử từng nhân vật, trường hợp tối ư cần thiết chép thêm chuyện ngoài sử, phải ghi rõ “Tục truyền”, “Truyền thuyết”, “dã sử”, “giai thoại”,… khoa học không chấp nhận sự tuỳ tiện.
5. Những tiến sĩ ở huyện Quảng Xương.
Mục “huyện Quảng Xương”, sách Những nhà khoa bảng xứ Thanhghi rõ: 1- Hoàng Quốc Thực; 2- Nguyễn Văn Khuê; 3- Nguyễn Văn Bích; 4- Trương Hữu Hiệu; 5- Trương Hữu Thiệu. Như vậy, nhóm biên soạn bỏ đi 4 tiến sĩ. Còn một vị trạng nguyên Trịnh Tuệ khi đi thi khai báo trú quán xã Bất Quần, huyện Quảng Xương, các nhà khoa học đã tuỳ nghi đưa về chính quán huyện Vĩnh Lộc. Ở đây, chúng ta chỉ hỏi nhóm PGS- TS rằng tại sao cả 4 vị Tiến sĩ bị các nhà khoa học phế truất học vị và loại khỏi danh sách huyện Quảng Xương?
Căn cứ Quảng Xương văn miếu bi ký do đốc học Lê Thế Hân giải nguyên khoa Tân Sửu, Phó bảng khoa Giáp Dần, thăng đốc học tỉnh Nghệ An, người huyện Đông Sơn cung soạn, dựng tại Văn miếu huyện Quảng Xương, năm Tự Đức thứ tư (1850), tháng 6 ngày 1 năm Canh Tuất (Hoàng Tuấn Công dịch và chú thích, tài liệu công bố trong sách Địa chí huyện Quảng Xương, chủ biên Hoàng Tuấn Phổ- Hội văn nghệ dân gian Việt Nam- NXB Lao động 2012), danh sách Trạng nguyên, Tiến sĩ (ghi tóm tắt điều cốt yếu):
1- Hoàng Giáp Lê Mệnh Dự, người tổng Lưu Vệ, thôn Văn Lâm, trúng Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, Chế khoa Giáp Dần (1554)…
2- Hoàng giáp Hoàng Quốc Thực, người tổng Cung Thượng, thôn Yên Khoái đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, Chế khoa Ất Sửu (1565)… (hiện còn dòng họ, gia đình, nhà thờ, mũ hia, cờ biển…)
3- Hoàng giáp Nguyễn Hữu Thường, người tổng Lưu Vệ, thôn Hải Án (Yến), đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ khoa Đinh Sửu (1637)…
4-Hoàng giáp Nguyễn Văn Quê, người tổng Lưu Vệ, xã Bất Quần, thôn Ngọc Am, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ khoa Canh Tuất (1610)…
5- Tiến sĩ Nguyễn Đình Chính, người tổng Lưu Vệ, xã Bất Quần, thôn Thọ Sơn, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ xuất thân, khoa Nhâm Thìn (1652)…
6- Bảng nhãn Nguyễn Văn Bích người tổng Lưu Vệ, thôn Ngọc Am, đỗ Đệ Nhất giáp, đệ Nhị danh khoa Kỷ Hợi (1659), thi khoa Hoành từ lại đỗ Đệ Nhất giáp, đệ Nhị danh, đệ Nhất khoa hoành … (Sau gia đình chuyển cư ở xã Ứng Mộ, huyện Vĩnh Lại, đổi Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Ông là cháu họ Hoàng giáp Nguyễn Văn Quê (Khuê) và là cháu họ ngoại Tiến sĩ Nguyễn Đình Chính. Nhà thờ họ Nguyễn hiện còn ở thôn Ngọc Am, xã Quảng Thịnh)
7- Trạng Nguyên Trịnh Tuệ, người tổng Lưu Vệ, xã Bất Quần, thôn Thọ Sơn, đỗ Đệ nhất giáp, đệ Nhất danh khoa Bính Thìn (1736)…
8- Tiến sĩ Nguyễn Mỹ Tài, người tổng Lưu Vệ, thôn Văn Lâm, đỗ Đệ tam giáp tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất (1670)…
Hai Tiến sĩ là ông cháu người cùng xã Thiên Linh, tổng Văn Trinh đời Tự Đức soạn khắc bia ký Văn miếu Quảng Xương, đang thuộc đất huyện Tĩnh Gia, từ đời Thành Thái (1889- 1907) chuyển về huyện Quảng Xương (Đời Trần xã Thiên Linh thuộc huyện Quảng Xương, đầu đời Gia Long mới chuyển tổng Văn Trinh về huyện Tĩnh Gia).
9- Tiến sĩ Trương Hữu Hiệu, người xã Thiên Linh, nay thuộc xã Quảng Thịnh, huyện Quảng Xương, đỗ Tiến sĩ Khoa Bính Thìn (1676) làm đến chức Giám sát Ngự sử, là ông nội Trương Hữu Thiệu.
10- Tiến sĩ Trương Hữu Thiệu, người xã Thiên Linh, là cháu nội Tiến sĩ Trương Hữu Hiệu. Trước đỗ khoa Sĩ vọng, năm 32 tuổi đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1718) đời Lê Dụ Tông. (Hiện chưa rõ hậu duệ họ Trương Hữu còn, mất, nếu còn, ở đâu?).
Thực ra, trên đây chỉ mới là những điều nhiều bạn đọc ở Quảng Xương đề nghị tôi nói lên ý kiến của mình. Tôi nghĩ đó cũng là điều phù hợp với độc giả những địa phương khác trong tỉnh. Ai cũng biết rằng viết về các nhà khoa bảng nước ta rất khó, không thể “cứ sách mách theo”, nó thuộc loai sách công cụ để tra cứu như Từ điển, phải tránh sai sót tới mức cao nhất. Chúng ta có thể “thông cảm” phần nào trình độ hạn chế của người soạn khiến quyển sách bị không ít sai lầm, thiếu sót. Chính Nhà xuất bản Thanh Hóa cũng đã viết ở Lời nói đầu sách Những nhà khoa bảng xứ Thanh: “…Việc tra cứu, so sánh để đảm boả tính chính xác, khoa học là hết sức công phu và khó khăn. Chắc chắn cuốn sách sẽ không tránh khỏi sự sai sót, thiếu và nhầm lẫn. Chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp của bạn đọc xa gần để lần tái bản cuốn sách được hoàn thiện hơn”. (tr.9)
Bởi giới hạn của một bài báo, người viết không thể nói hết mọi điều cần nói. Tôi sẽ trở lại vấn đề này vào dịp khác.
H.T.P
Tạp chíXứ Thanh 11/2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét