Thứ Ba, 10 tháng 9, 2013

AI LÀM HỎNG “DI SẢN TỤC NGỮ” ?

Hay là những sai lầm của Nhà ngữ học
Nguyễn Đức Dương trong Từ điển tục ngữ Việt
                                          Hoàng Tuấn Công                         
Trong bài “Giới 8X, 9X với di sản tục ngữ” trên báo Lao động cuối tuần (số 10-8/3/2013) Nhà ngữ học, TS Nguyễn Đức Dương viết: “Không ít ý kiến cho rằng giới trẻ ở độ tuổi 8X, 9X ngày nay đang quá thờ ơ với tục ngữ [TN]. Một cô giáo dạy văn ở THCS tôi quen đã không chia sẻ nhận định ấy, mà thậm chí còn gay gắt bác lại. Theo cô, các em chỉ thờ ơ khi chưa thấu hiểu nội dung thôi, chứ một khi đã nắm được rồi, các em còn tỏ ra thích thú là đằng khác”.
Thế rồi, được sự giúp đỡ của cô giáo nọ, Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương đã làm một cuộc trắc nghiệm thú vị: Đưa ra 10 câu tục ngữ, mỗi câu kèm 2 cách giải thích trong 2 cuốn sách để các em chọn “thích” hoặc “không thích”: một cách giải thích trong Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân (NXB Văn Hóa - 1989); một của chính Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương (trong Từ điển tục ngữ Việt-NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh-2012). Kết quả (theo bài báo): cách giảng giải của Nguyễn Đức Dương được các em học sinh đánh dấu “thích” chiếm tỉ lệ áp đảo so với GS Nguyễn Lân. Nguyễn Đức Dương (NĐD) đi đến kết luận: “Nhận xét cuối cùng xin để bạn đọc tự đưa ra. Riêng về phần mình, chúng tôi chỉ có một nhận xét nhỏ: Làm cho nội dung của các đơn vị tục ngữ vốn vô giá của chúng ta sai lệch đi tới mức ấy thì ít người ưa và lắm người ghét âu cũng là chuyện thường. Chẳng phải vô cớ mà người xưa hay dặn: “Tiên trách kỷ; hậu trách nhân” (Nên tự trách mình trước khi trách người)”.Việc làm trên của TS Nguyễn Đức Dương thể hiện tâm huyết, trách nhiệm cao của một Nhà ngữ học lão thành đối với thế hệ trẻ. Nhưng tiếc thay, chính ông lại quên mất lời “người xưa hay dặn”. Bởi GS Nguyễn Lân giải thích sai đã đành, đến lượt mình, Nguyễn Đức Dương lại mắc phải cái sai kiểu khác, không kém phần nghiêm trọng. Sau đây là một phần nhỏnhững sai lầm trong cuốn Từ điển tục ngữ Việt của Nguyễn Đức Dương, kể cả những câu được nhà ngữ học xem là chuẩn mực, đem ra làm mẫu cho các em học sinh, qua đó phê phán GS Nguyễn Lân. Những câu in đậm, in nghiêng của Nguyễn Đức Dương. Nội dung gạch đầu dòng là trao đổi lại của Hoàng Tuấn Công:
Ăn khi đói; nói khi say Ăn là chuyện hay diễn ra khi bụng đói; nói là chuyện hay diễn ra khi đã ngà ngà say.-Đối với loài vật, chúng chỉ ăn khi đói (theo bản năng). Nhưng với con người, chúng ta còn ăn để thưởng thức, ăn cho vui, ăn để giao lưu, kết tình bạn bè... Ba ngày Tết, bụng không đói, mồm chẳng thèm, thế mà người ta vẫn ăn. Thậm chí ăn rất nhiều món, nhiều thứ. Còn khi “đã ngà ngà say” có người nói nhiều, nhưng không ít người lại im thít, hoặc lăn ra ngủ tít thò lò ! Cái “chân lý” mà Nhà ngữ học đưa ra thật khó đứng vững. Vả lại, giải thích như vậy thì còn gì là tục ngữ nữa ? Thử hỏi ta học được gì qua cách giải thích của N.Đ.D ? Tục ngữ là tri thức, là kinh nghiệm cơ mà ?
Câu tục ngữ đang bàn khuyên người ta cần thận trọng trong ăn và nói, đặc biệt là lúc đói và lúc say. Ăn lúc đói có thể không làm chủ được bản thân, ăn hỗn, ăn tham làm mất tư cách con người (Miếng ăn là miếng nhục-Tục ngữ); hoặc khi đói ăn không kịp nhai, ăn uống bậy bạ, dễ sinh bệnh tật. Nói lúc say (Rượu vào lời ra, Nói với người say như vay không trả-Tục ngữ) dễ sinh ra nói càn, nói bậy, phạm sai lầm, mắc lỗi đáng tiếc. Cách giải thích “tự nhiên chủ nghĩa” của Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương khiến câu tục ngữ bị mất đi giá trị vốn có của nó là giáo dục, răn đời sâu sắc.
Ăn vụng không biết chùi mép
Đã ăn vụng lại còn chẳng biết chùi mép (thì quả là dại dột hết chỗ nói). Hay dùng để nhắc mọi người hãy nhớ chùi kỹ mép sau khi ăn vụng xong (cho khỏi bị phát giác).
 -Cứ theo cách lý giải này, tục ngữ khuyên dạy “mọi người” (trong đó chắc hẳn có tôi, chúng ta và cả… nhà ngữ học ?!) “nhớ chùi kỹ mép sau khi ăn vụng xong”(!) để sao cho trót lọt, “cho khỏi bị phát giác” (!) Hóa ra tục ngữ cũng dạy kinh nghiệm ăn vụng thế nào cho khéo ư ?
 Thực ra, đây là một câu chửi, câu phê phán, chế giễu, mỉa mai kẻ làm chuyện vụng trộm, bất chính nhưng lại hớ hênh, để lại chứng cứ, dấu vết quá rõ ràng khiến người đời cười chê.
Ba tháng con sẩy, bẩy tháng con sa
Mới ba tháng mà đã sinh (thì gọi là) con sẩy, mới bẩy tháng mà đã sinh (thì gọi là) con sa. 
 -Dân gian không có ý dùng tục ngữ để giải nghĩa từ vựng “con sẩy”“con sa” trong tiếng tiếng Việt. 
“Ba tháng con sẩy, bẩy tháng con sa” là câu tục ngữ đúc kết kinh nghiệm dưỡng thai, an thai của dân gian (mà đến nay đã được khoa học chứng minh): trong ba tháng đầu thai kỳ, người mẹ thường dễ bị sẩy thai nhất. Bởi vậy trong thời kỳ này, chuyện đi đứng, sinh hoạt, thai phụ phải kiêng khem cẩn thận. (Đông y có bài thuốc “an thai”, Tây y cũng có liệu pháp điều trị chống sẩy thai). Vượt qua được thời kỳ 3 tháng đầu, thai nhi sẽ ổn định hơn. Tuy nhiên đến tháng thứ 7, thai phụ lại rất dễ bị đẻ non (con sa). Do đó từ tháng thứ 7 người mẹ cũng phải cẩn trọng trong đi đứng, sinh hoạt để tránh bị sinh non. Ba tháng con sẩy, bảy tháng con salà vậy đó.
Báng đầu thằng trọc phải nể lòng ông sư
Cốc (vào) sọ những kẻ đầu trọc thì phải nể lòng ông sư (vì đầu ông sư cũng trọc).
-Từ “báng” cũng có một nghĩa là “cốc”. Tuy nhiên, trong câu tục ngữ trên, “cốc” không thể hiểu là “cốc (vào) sọ” được. Nếu “cốc” vào đầu kẻ trọc thì kẻ trọc chịu đau, đâu ảnh hưởng gì đến ông sư ? Báng ( ) là từ Hán-Việt có nghĩa là: báng bổ, mỉa mai,lên tiếng chê bai, xúc phạm đến hình ảnh hoặc những điều đối với người khác là thiêng liêng (Vì dụ: Báng bổ kinh Cô-ran). Câu này có ý khuyên mọi người nên thận trọng khi ăn nói, nhất là những lời có ý báng bổ, đụng chạm, xúc phạm kẻ khác.
Bạng duật tương trì ngư  ông đắc lợi
Trai và cò mà tranh ăn với nhau thì kẻ được hưởng lợi thường là ông đánh cá (vốn được mời đứng ra phân xử vụ tranh chấp). Hay dùng để khuyên mọi người chớ có tranh ăn với nhau mà dễ bị kẻ ngoài cuộc đoạt mất.
-Sẽ thật không phải nếu dám coi thường nhà ngữ học - TS Nguyễn Đức Dương chưa hề biết đến điển cố“Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi”.Tuy nhiên, việc TS giải thích sai câu tục ngữ này lại nói lên điều đó.
Ở đây không có chuyện “trai và cò tranh ăn với nhau”, càng không có chuyện ông đánh cá “vốn được mời đứng ra phân xử vụ tranh chấp”. Điển cố này tóm tắt: Theo Chiến quốc sách, một hôm con trai mở miệng phơi nắng trên bãi cát, cò đi kiếm mồi, mổ ngay vào ruột con trai, trai liền khép chặt hai mảnh vỏ lại. Cò và trai cùng giằng nhau mãi, không con nào chịu nhường con nào, lão đánh cá đi qua thấy vậy liền chộp được cả hai (Điển Cố văn học - Nhà XB Khoa học xã hội - Hà Nội 1977).“Tương trì” nghĩa là níu giữ, giằng co nhau, không phải là “tranh ăn”như  soạn giả giải thích. Lẽ nào nhà ngữ học không biết đến cả mấy câu ca dao diễn dịch rất hay câu chuyện này: “Cái cò mà mổ cái trai, Cái trai quặp lại lại nhai cái cò, Ngư ông bước tới lò dò, Giơ tay chộp lấy cả cò lẫn trai” ?!)
Cà làng Hạc ăn gãy răng; khoai làng Lăng ăn tắc cổ
Cà làng Hạc (rắn tới độ) có thể làm gãy cả răng khi nhai; khoai làng Lăng (cứng tới độ) có thể làm tắc cả cổ khi nuốt.
-Lẽ nào nhà ngữ học lại không hiểu lời ăn tiếng nói của dân gian ? “Gãy răng”“tắc cổ” chỉ là cách nói ngoa dụ mà thôi. Cà làng Hạc (nay thuộc TP Thanh Hoá) là thứ cà màu trắng, ăn rất giòn. Khi cắn, âm thanh quả cà vỡ ra, giòn tan, khiến người ta tưởng như hàm răng người ăn cà cũng gãy ra, vỡ theo đánh “đốp”. (Còn có giống cà quả nhỏ, mầu trắng, ăn giòn tan như “pháo” nên gọi là cà pháo). Làng Lăng (làng Linh Lộ-xã Quảng Hợp-Quảng Xương- Thanh Hóa) có giống khoai tên là Ô Xập, lá chia nhiều thùy hình chân vịt, củ tròn, bột trắng xóa từ ngoài vào trong nên khi ăn thường bị nghẹn, cảm tưởng như cổ bị tắclại. Câu tục ngữ này ngợi ca hai sản vật cà và khoai đều ngon, quý, không phải chê“rắn”“cứng tới độ” ăn “gãy răng khi nhai”“tắc cả cổ khi nuốt” như soạn giả lầm tưởng.
Chiêm khê; mùa thối
(Tình trạng hay gặp ở vùng chiêm trũng là đất gieo trồng) trong vụ chiêm hay bị khê; trong vụ mùa hay bị thối.
-Từ “khê” được Nguyễn Đức Dương giải thích “Khê (Đất phơi ải) chẳng tài nào khô nỏ và tơi xốp nổi (do ít được dãi dầu cùng nắng gió)”. Và chữ “Thối (Đất làm dầm) chẳng tài nào nhuyễn ra nổi (do nước mất hết khả năng ngấm sâu vào đất).
Loại đất cày ải không đủ thời gian hoặc điều kiện thời tiết làm cho khô nỏ, người ta gọi là ải thâm, không ai gọi đất “khê”(Ải thâm không bằng dầm ngấu) Nếu đất “không tài nào nhuyễn ra nổi” nguyên do “nước mất hết khả năng ngấm sâu vào đất” thì sao gọi là “thối” được ?
Câu tục ngữ trên nói về khó khăn của vùng đất không chủ động được tưới tiêu.Vụ chiêm (gắn với mùa khô) chỉ trông chờ vào nước trời, nên đất đai, cây trồng thường bị “khê” - khô cháy (“khê” - trong từ cơm khê - cơm bị cháy khét). Vụ mùa (gắn với mùa mưa lũ) hệ thống tiêu nước kém nên đất đai và cây trồng bị ngâm đến thối trong nước lũ. Bởi thế đối tượng mà tục ngữ nói đến ở đây không chỉ là đất gieo trồng (như NĐD giải thích) mà bao gồm cả cây trồng trên đất ấy (cụ thể là cây lúa nước).
Thực ra câu tục ngữ “Chiêm khê, mùa thối”chỉ là cách nói hình tượng hơn câu “Chiêm khô; mùa úng mà nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương dẫn ra ngay sau đó. Tuy nhiên, soạn giả lại tìm ra một cách giải thích khác, kèm thêm một cái sai khác: “Chiêm khô; mùa úng(Tiết trời hay gặp) khi làm chiêm là hanh khô (vì ít mưa); khi làm mùa là úng ngập (vì mưa nhiều)”. Theo cách giải thích này, Nhà ngữ học đã biến câu tục ngữ nói về nỗi khổ cực của người trồng lúa trên vùng đất canh tác khó khăn thành câu tục ngữ có nội dung nhận xét về đặc điểm “thời tiết hay gặp” của vụ chiêm và vụ mùa.
Đám cưới chọn ngày; đi cày chọn hướng
(Làm) đám cưới thì nhớ chọn ngày (lành); cho trâu ra đồng đi cày thì nhớ chọn hướng (vượng).
-Làm đám cưới “chọn ngày (lành)” thì đúng rồi. Nhưng “cho trâu ra đồng đi cày” cũng phải “nhớ chọn hướng (vượng)” mới cày thì nghe kỳ dị quá ! Nếu vậy, muốn trở thành thợ cày, người ta phải đi học thày phong thủy trước đã; và khi ra đồng, ngoài con trâu, cái cày, bác nông dân còn phải kè kè thêm cái la bàn ? !
Sản xuất nông nghiệp Việt Nam manh mún, nhỏ lẻ. Ruộng thì vuông, ruộng hình chữ nhật, ruộng xéo, gẫy góc, đủ mọi hình thù. Đường cày đầu tiên sẽ là đường quyết định cho tất cả đường cày, luống cày tiếp theo. Do đó, phải chọn hướng để cày, sao cho có được nhiều đường cày dài, trâu ít phải quay đầu, đồng nghĩa ít phải cuốc bờ, cuốc góc. Vậy tại sao lại ví chuyện chọn hướng cày với chọn ngày đám cưới ? Vì dân gian muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của khởi đầu. Nếu khởi đầu tốt, đúng sẽ tạo thuận lợi cho công việc tiếp theo và ngược lại. Ví như chọn đám cưới phải ngày xấu, người ta không thể cưới lại. Chọn hướng cày sai, đổi hướng cũng dở, mà cày tiếp cũng dở.
“Đám cưới chọn ngày, đi cày chọn hướng” chỉ đơn giản vậy thôi.
Đóm ăn ra; tim la ăn vào
Đóm là thứ hay cháy theo hướng từ trong ra: tim la là chứng hay ăn theo hướng từ ngoài vào.
-Có thể dễ dàng nhận ra soạn giả chép nhầm từ “đom” thành “đóm” rồi giải nghĩa từ vựng, diễn giải nội dung tục ngữ rất khiên cưỡng. Tại sao bỗng đâu đem chuyện đóm cháy so sánh với bệnh tim la ? Mặt khác khi cố tình lý giải “đóm là thứ hay cháy theo hướng từ trong ra ngoài” cho hợp với từ chép nhầm khiến đã sai càng thêm sai. Khi đóm cháy, ngọn lửa lan dần từ ngoài vào phía trong (phía tay người cầm đóm) đâu có cháy từ phía trong tay người cháy ra ngoài ? Sai sót này xuất phát từ chỗ soạn giả không hiểu quy luật cấu trúc từ của tục ngữ, thành ngữ dân gian. (Giống trường hợp câu Áo cứ tràng, làng cứ xã bị GS Nguyễn Lân chép nhầm thành Áo cứ chàng, làng cứ xã , mà chính Nguyễn Đức Dương đã từng phê phán trong phần phụ lục Từ điển tục ngữ Việt).
 Đom(là cách gọi tắt bệnh lòi đom hay lòi dom)  cũng là tên gọi khác của bệnh trĩ. Bệnh này phát triển theo chiều hướng “ăn ra”, tức ngày càng lòi (lồi) ra ngoài hậu môn. Còn bệnh “tim la” (hay tiêm la hoặc xiêm la, bệnh lậu) lại xâm nhập (chủ yếu qua đường tình dục, đường máu…) rồi ăn sâu vào lục phủ ngũ tạng, không nhìn thấy được. Như vậy lòi đom tim la đều là hai chứng bệnh. Câu Đóm cháy ăn ra; tim la ăn vào” (thêm chữ “cháy”) Nguyễn Đức Dương dẫn ra ngay sau đó và cho rằng đồng nghĩa với“Đóm ăn ra; tim là ăn vào”, chẳng qua chỉ là một dị bản ngụy tạo, mục đích cố chứng minh cho cái vô lý của “Đóm ăn ra, tim la ăn vào” mà thôi.
Đói giỗ cha; no ba ngày tết
Hay bị đói là vào dịp giỗ cha (vì đâu còn lúc nào mà nghĩ tới chuyện ăn trong khi đang mải lo chuyện cúng giỗ); hay được ăn no là vào dịp ba ngày Tết (vì đó là một thông lệ vốn có tự ngàn xưa)
-Không phải "hay đói là vào dịp giỗ cha". Chẳng có ở đâu phong tục làm giỗ cha lại theo quy luật như thế. Giỗ cha là dịp lễ trọng (Trâu bò được ngày phá đỗ, cón cháu được bữa giỗ ông - tục ngữ). Nếu "đói vì mải lo chuyện cúng giỗ" thì cúng xong cũng phải được ăn chứ ? Tục ngữ có câu "Trước cúng cha sau va vô miệng" cơ mà ? (Chữ va có tính chất hài hước, ý chỉ con cháu ăn uống thực sự sau khi cúng giỗ). Thực ra, câu tục ngữ “Đói giỗ cha, no ba ngày Tết” được hiểu như sau: Ngày giỗ cha rất quan trọng, nhưng không dứt khoát phải cỗ bàn thịnh soạn. Gặp năm mùa màng thất bát, đói kém, chiến tranh loạn lạc thì ngày giỗ cha có khi chỉ có nén hương, chén nước, bát cơm, quả trứng gọi là nhớ ngày kỵ. Như thế không có gì là trái đạo lý. Bởi tín ngưỡng thờ cúng của người Việt không câu nệ mâm cao cỗ đầy, "Bắt thiếu giỗ, không ai bắt cỗ lưng". Thế nhưng ba ngày Tết lại là chuyện khác. Người ta có thể túng thiếu, quanh năm nhịn đói, nhịn thèm, nhưng ba ngày Tết cũng phải chạy vạy bằng được để ít nhất không được ăn ngon cũng phải ăn no. Thế nên có câu "Giàu hay nghèo, ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà". Tết đến người ta không chỉ ăn cho no bụng mà còn ăn để lấy may cả năm. Ngày Tết được ăn ngon, ăn no, mặc đẹp, vui vẻ, nhàn hạ thì hy vọng cả năm cũng sẽ được như vậy. Tóm lại, câu tục ngữ đưa ra ngày quan trọng (giỗ cha) để so sánh, khẳng định một ngày khác quan trọng hơn: Tết là ngày quan trọng nhất trong tất cả những dịp lễ quan trọng trong năm; Có thể bị đói vào ngày giỗ cha nhưng ba ngày Tết dứt khoát phải được no. Ta còn bắt gặp cách nói này của dân gian trong câu "Cha chết không lo bằng gái to trong nhà". Thực tế "cha chết" là đại tang, việc lớn lắm. Thế mà dân gian lại đem so sánh và cho rằng không bằng chuyện "gái to trong nhà". Thủ pháp này cũng nhằm gửi đến một thông điệp, kinh nghiệm: có con gái lớn đến tuổi lập gia đình ở trong nhà là nỗi lo lắng lớn, (ví như lo quá lứa lỡ thì, lo chẳng may “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”, chửa hoang, tai tiếng...) Sẽ là việc làm khá hài hước nếu chúng ta thắc mắc và cố đi tìm nguyên nhân tại sao, ở đâu lại có chuyện coi thường việc "cha chết" như vậy.
Tham khảo: Về câu "Đói giỗ cha no ba ngày Tết", trên Báo Lao động Cuối tuần (7/1/2012), mục "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt" PGS TS Phạm Văn Tình cho biết: "bản thân tôi nhiều lúc cũng không rõ nguyên do từ đâu dẫn đến câu tục ngữ này. Hầu hết các sách sưu tầm văn hoá dân gian chỉ thống kê chứ chưa giải thích kỹ câu đó (...). Đầu năm 2010, khi cuốn “Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2010) xuất bản, tôi vội vã tra ngay". Theo PGS TS Phạm Văn Tình "cách cắt nghĩa như vậy (tức cách giải thích của Nguyễn Đức Dương-HTC) cũng chưa thật rõ ý". Thế là PGS TS Phạm Văn Tình đã phải  đi làm cuộc "điền dã" không cần thiết theo cách "hỏi các cụ cao niên ở nhiều nơi tôi qua (Đông Cứu, Gia Lương, Hà Bắc; Yên Xá, Ý Yên, Nam Định; Quỳnh Côi, Quỳnh Phụ, Thái Bình...)" để được các cụ giải thích tại sao lại đói vào ngày giỗ cha rất dài dòng. Theo đó, cách giải thích của PGS TS Phạm Văn Tình công phu hơn nhưng cũng không ngoài một số nguyên nhân là phải lo chuyện lễ lạt, cúng cấp, tiếp khách...nên bị đói vào ngày giỗ cha như TS Nguyễn Đức Dương. Việc làm này khác nào cất công đi tìm hiểu xem ở đâu, tại sao lại có chuyện “Cha chết không lo bằng gái to trong nhà”.
Đói no vua bếp hay; đắng cay bà gừng biết
Cả khi đói lẫn khi no vua bếp đều biết tường tận; cả khi khỏe mạnh lẫn khi ốm đau bà gừng đều biết rõ hết. Hay dùng để ngợi khen lòng cảm thông sâu sắc của ông Táo và củ gừng đối với thân phận của người nghèo ở nông thôn hồi trước.
-Nguyễn Đức Dương chú thích: "Bà gừng. Tên dân gian hay dùng để gọi củ gừng theo lối ẩn dụ, vị thầy thuốc tài ba vẫn cứu giúp người dân quê nghèo trong việc chạy chữa mọi thứ bệnh tật".
Cách giải nghĩa và chú thích nghe thật mùi mẫn. Thế nhưng, đó chỉ là lời “tán” vô căn cứ. Nghĩa đen của câu thành ngữ này là: Ông Bếp phụ trách việc bếp núc nên gia chủ đói hay no, nấu nướng ăn uống món gì đều không giấu được. Còn “bà Gừng” thường được dùng để "làm thang" cho ấm thuốc Bắc (cắt ba lát gừng bỏ chung với ấm thuốc để đun). Vì "nằm" ngay trong siêu thuốc suốt quá trình sắc nên thuốc đắng hay cay "bà gừng đều biết"cả, không thể giấu được. Và vai trò của "bà gừng" chỉ là phụ gia dẫn thuốc, để tăng công hiệu của thuốc. Không nên vì không hiểu mà tâng bốc "bả" thành "vị thầy thuốc tài ba vẫn cứu giúp người dân quê nghèo trong việc chạy chữa mọi thứ bệnh tật" (!) Nghĩa bóng câu thành ngữ này là: Không thể giấu giếm được sự thật; Sự thật sẽ được xác minh bởi những người trong cuộc.
 Đừng chờm mà có ngày chấn móng
  Đừng (xây tường vách) chờm (ra quá xa chân móng đỡ nó) mà có ngày sẽ bị chấn móng.
 -“Chấn móng” được Nguyễn Đức Dương chú thích: “(Tường vách) bị gãy gập lại ngay tại nơi tường, vách tiếp giáp với chân móng”. Thế nhưng như thế là tường bị đổ chứ móng đâu có chấn ? Hơn nữa, nếu giải thích theo hướng này thì “chờm”(vần ch) phải thay bằng “trờm” (vần tr) mới đúng. Việt Nam tự điển giải nghĩa: Trờm: Thừa ra, trùm lên cái khác. Tóc trờm quá tai, Vung trờm miệng nồi”. Đây là “chờm” kia mà ? Cách giải thích của Nguyễn Đức Dương không thể đứng vững, bởi nội dung tục ngữ chẳng liên quan gì đến chuyện xây dựng tường vách. Đại Nam Quấc âm tự vị(Huình Tịnh Paulus Của) giải thích từ chờm: “Chờmnhảy dựng, nhảy xơm mà chụp... Ngựa chờm- Ngựa dựng lên mà chụp”. Và xin tham khảo Việt Nam tự điển giải nghĩa một số từ có trong câu tục ngữ đang bàn: Chờm: Cũng như chồm (...) Móng: Móng chân móng tay, móng lừa móng ngựa (...) Chấn: Xén, cắt bớt đi: Chấn móng ngựa”. Như vậy, từ chỗ lầm lẫn “chờm” (động từ) với trờm (tính từ) rồi lại giảng sai nghĩa từ vựng của “chờm”, Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương đã cho cái móng ngựa đi xa cả ngàn dặm rồi biến thành cái...móng nhà (!) Câu Đừng chờm mà có ngày chấn móng theo nghĩa đen là lời đe nẹt đối với con ngựa bất kham: Đừng nhảy chồm lên mà có ngày bị chấn (cắt, xén) bớt móng đi (do nhảy chồm nhiều móng bị bè, bẹt ra). Hiểu theo nghĩa bóng: đây là lời răn đe, cảnh cáo đối với kẻ ương bướng, ưa phá phách, sẽ có ngày tự mình làm hại mình.
Gà kị hổ mang; lúa kị màng rạp
 Gà là giống rất kỵ rắn hổ mang (tới độ dễ bị chột đi sau khi bị giống rắn ấy “thổi”); lúa là giống rất kỵ màng rạp (tới độ khó mà trổ nổi sau khi bị lũ rầy ấy ập tới hút nhựa)
 -Nguyễn Đức Dương chú thích: “Màng rạp dt. Tên dân gian hay dùng để chỉ giống rầy chuyên hút nhựa từ lá lúa khiến lá bị đen đi và không sao làm nổi đòng”.
Giải thích như vậy là không hiểu tập tính sinh trưởng và sự gây hại của con sâu rầy thế nào. Con rầy không bao giờ "hút nhựa từ lá lúa". Vì nhựa (chất dinh dưỡng của lúa) không tập trung ở lá mà ở thân, bẹ lúa. Thứ hai “lũ rầy” không “đánh tập kích” kiểu “ập tới hút nhựa” giống như đàn chim mà chúng di trú ngay tại ruộng, đẻ trứng, sinh sôi nảy nở, lứa nọ gối lứa kia (gọi là rầy gối lứa) và thi nhau chích hút ở phần thân dưới gốc lúa. Thế nên khi phun thuốc diệt rầy, người ta phải rẽ lúa thành băng, đưa trực tiếp vòi phun xuống gốc lúa để thuốc tiếp xúc trực tiếp với con rầy chứ không phun trên bề mặt của lá lúa. Nếu bị rầy hại nặng ở thời kỳ nào, cây lúa sẽ bị chết khô giống như hơ vào lửa (gọi là cháy rầy). Đâu phải chỉ “khiến lá bị đen đi và không sao làm nổi đòng” hay  "khó mà trổ nổi" như cách giải thích của nhà ngữ học. Còn cái thứ hại mà “khiến lá bị đen đi” chính là do giống rệp muội đen chứ không phải rầy. Rệp chích hút nhựa cây, chất thải của chúng tiếp tục được một loại nấm cộng sinh tạo thành lớp phấn màu đen phủ kín lá cây, nên gọi là rệp muội đen.Và rệp muội đen thường gây hại trên cây trồng cạn như: cây ăn quả, mía, chuối, cam quýt ...chứ không phải cây lúa nước.
Mài mực dỗ con: mài son đánh giặc
Mài mực (nho là việc dễ làm còn hơn cả) dỗ con; mài son (cục là việc khó làm còn hơn cả) cầm quân đánh giặc.
Mài mực ru con, mài son đánh giặc
Mài mực (nho là việc dễ làm còn hơn cả) ru con; mài son (cục là việc khó làm còn hơn cả) cầm quân đi đánh giặc.
-Nguyễn Đức Dương giải thích câu này không đến nỗi sai lạc nghiêm trọng  như GS Nguyễn Lân: Mài mực ru con, mài son đánh giặc. Nói các ông đồ ngày xưa ngày thường ngồi dạy học đồng thời giúp vợ làm việc vặt trong nhà, nhưng khi có giặc thì tham gia phục vụ quân sự” (Từ điển Thành ngữ tục ngữ Việt Nam-NXB Văn hóa thông tin-1989) Nhưng soạn giả Nguyễn Đức Dương  lại mắc phải cái sai kiểu khác.
Xin hỏi, trẻ nhỏ mà quấy khóc, dỗ được nó nín, ru cho nó ngủ đâu dễ tới mức có thể đem so sánh với những việc làm dễ nhất trên đời ? Tục ngữ cũng đâu nói “dễ làm còn hơn cả” ru con, hay “khó làm còn hơn cả” đánh giặc. Hơn nữa, mài mực nho đâu có dễ ?
Câu tục ngữ “Mài mực ru con, mài son đánh giặc” được diễn giải là: Mài mực phải mài nhẹ nhàng giống như ru con (hoặc dỗ con); mài son phải mài mạnh mẽ giống như đi đánh giặc. Bởi vì, mực tàu đóng thành thỏi rất rắn, nhưng khi mài lại không được phép mạnh tay. Nếu sốt ruột, mài mạnh tay cho nhanh, mực sẽ không mịn, sinh ra lắm hạt sạn nhỏ; khi viết ngọn bút bị xơ, nét bút không đẹp. Ngược lại, nếu mài nhẹ nhàng, từ từ, êm ái (như “ru con”) mực trong thỏi sẽ ngấm dần, hoà tan, quyện với nước, cho một thứ mực mịn màng, sóng sánh, khi viết đầu bút chụm lại, bút lông có độ đàn hồi tốt và nét bút không bị xơ, cứng, mặt chữ bóng, đẹp. Còn đối với mài son. Xưa kia, người ta thường lấy các loại đá có màu đỏ trong tự nhiên để làm son, rất rắn. Tuy nhiên, son không yêu cầu mịn như mực, bởi thông thường người ta không dùng son để viết chữ mà chỉ dùng để  phê, khuyên, đánh dấu hoặc đóng ấn, triện. Do đó, khi mài son được phép mài (và phải mài) mạnh tay mới được (mạnh mẽ như đi “đánh giặc”vậy). Việc mài mực rất quan trọng. Chuyện kể rằng, xưa có người ở làng Hạc Oa (nay thuộc TP Thanh Hóa) chuyên mài mực cho Tổng đốc Thanh Hóa Vương Duy Trinh, sau được hàm Cửu phẩm, gọi là ông Cửu Mặc (ông Cửu phẩm mài mực).
Mâm cao đánh ngã bát đầy
Mâm cỗ bày lắm món đặt chồng lên nhaubao giờ cũng đánh bại dễ dàng các mâm cỗ chỉ bày vài ba món dù đĩa nào cũng được đơm rất đầy. Hay dùng để chỉ rõ một lẽ thật: “Mâm cỗ bày lắm món bao giờ trông cũng bắt mắt hơn là mâm cỗ chỉ bày vài ba món được đơm đầy”.
-Giải thích như vậy câu tục ngữ trở nên tầm thường quá. Cần chú ý hai khái niệm: mâm caobát đầy. Mâm cao là mâm được dọn ra ở vị trí cao (sang) nhất thường dành cho các vị chức sắc, các cụ cao niên hoặc người được tôn trọng trong làng xã (hay đình đám). Còn bát đầy được hiểu là đồ ăn thức uống không được dọn thành mâm (cỗ) mục đích chỉ cốt ăn uống cho no bụng. Do đó, cái “mâm cao” sang trọng giữa làng vẫn được người ta thích hơn là cái bát đầy ở xó bếp. Vì "Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp" kia mà ! Dân gian còn có câu: "Mâm cao, cỗ đầy", nghĩa là được cả danh và lợi: vừa sang trọng về vị trí, vừa thịnh soạn về các món ăn. Chữ "mâm cao" ở đây chính là mâm cao trong câu "Mâm cao đánh ngã bát đầy" chứ không phải là "mâm cỗ bày lắm món đặt chồng lên nhau" như cách giải thích của nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương.
Mẻ không ăn cũng chết
Mẻ mà chẳng  ăn thì cũng chết (nên có để dành được đâu mà cố để giành) Hay dùng để khuyên mọi người chớ có dè sẻn những thứ không thể để giành được mà uổng công.
-Thực ra ở đây là mẻ không được ăn chứ không phải không ăn đến mẻ. Mẻ không phải là loại gia vị thiết yếu. Cho nên người ta chỉ nuôi mẻ bằng cơm nguội, cơm thừa, thậm chí cơm đã có mùi thiu mới đem cho mẻ (ngày xưa hiếm lương thực). Nếu thừa cơm thì cho mẻ ăn, không thừa thì thôi. Thế nên có câu thành ngữ Coi như mẻ (xem thường, xem khinh ai đó giống như mẻ). Có vẻ như mẻ thật dễ tính, ăn cũng được, không ăn cũng không sao. Tuy nhiên, thực tế, nếu mẻ không được ăn trong thời gian dài, lọ mẻ hết chất tinh bột để vi khuẩn gây men hoạt động thì mẻ cũng chết như thường. Câu tục ngữ trên đề cao tầm quan trọng nhu cầu ăn uống của tất cả mọi sinh vật. Ai cũng phải ăn uống mới duy trì được sự sống. Vì đến dễ tính như mẻ kia không ăn cũng chết cơ mà !                  
Mồ cha chẳng khóc khóc đống mối; mồ mẹ chẳng khóc khóc bối bòng bong.
Mồ cha chẳng khóc, lại khóc mấy nấm đất do mối đùn; mồ của mẹ chẳng khóc, lại khóc mấy cái búi bòng bong. Hay dùng để chê trách những kẻ quá tin vào lời đám thầy địa lý/thầy cúng tới độ chỉ đi than khóc các thứ vớ vẩn, mà chẳng thèm ngó ngàng gì tới mồ mả của cha mẹ mình.
-“Bòng bong” ở đây được nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương chú thích là “búi xơ vót ra từ các đôi đũa tre cắm trên bát cơm cúng đặt trên quan tài người mới chết".
Nếu chỉ dừng ở việc diễn giải tục ngữ thì đúng. Nhưng thêm mấy dòng chú thích lại trở thành sai. Đũa tre cắm trên bát cơm cúng gọi là "đũa bông" chứ không phải là “bòng bong”. Có một loại gọi là bòng bong là phoi tre (kiểu như phoi bào nhưng dài mà mảnh hơn, quăn hơn) do người ta vót nan tre, nứa để đan đồ đựng rồi vò thành đống. Có câu "Rối như búi bòng bong" cơ mà ! Mấy cái xơ của đũa tre vót ra tuy cong tít nhưng một đầu vẫn dính vào chiếc đũa nên xơ nào ra xơ ấy chứ đâu có rối ? Còn bòng bong trong câu tục ngữ lại là một loại dây leo, hay mọc ở các bụi rậm, mầu nâu, mảnh như sợi miến mà dai, quấn nhằng nhịt vào nhau. Câu “Rối như bối bòng bong” cũng được dùng để chỉ loại bòng bong này.
Trở lại với câu tục ngữ. Cái tổ mối đùn nó lùm lùm gần giống như một nấm  mồ vô chủ. Còn cái bụi rậm nhằng nhịt những búi (bối) bòng bong cũng tựa như một ngôi mộ bịt thất lạc, lâu ngày hóa hoang rậm. Thế nên, ông thầy đi tìm mộ mới chỉ vào đó để người ta khóc lóc, khấn vái, vì cứ ngỡ mộ tổ tiên ông bà bấy lâu không ai chăm sóc. Còn nếu khóc búi “bòng bong”“búi xơ vót ra từ các đôi đũa tre cắm trên bát cơm cúng đặt trên quan tài người mới chết", thì lúc này con cháu đang than khóc chung quanh làm sao có thể nhầm ra mộ tổ tiên mình bị thất lạc được ?
Một ngôi sao một ao nước Mỗi một ngôi sao hiện ra trên bầu trời đêm hôm trước (là điềm ngày mai trời sẽ trút xuống mặt đất) một ao đầy nước mưa. 
-Rất khó chấp nhận cách giải thích trên của Nguyễn Đức Dương. Bởi theo kinh nghiệm dân gian, nếu đêm hôm trước bầu trời đầy sao là dấu hiệu ngày mai trời sẽ không một gợn mây, nắng chang chang. Đâu có chuyện ngược đời, đêm hôm trước càng nhiều sao, ngày mai càng mưa lớn ?
Vậy, câu tục ngữ của Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương được hiểu như thế nào ? Nói như dân gian “đến trời cũng không thể hiểu nổi”. Bởi hình thức chính xác của câu tục ngữ là: Một sao, ao nước. Một sao nghĩa là không có ngôi sao nào. “Một” là từ Hán Việt có nghĩa như sau:
- “ Chìm đắm, bị nước tràn ngập gọi là một. Chết, mất rồi, có khi viết là 歿. Hết, như một thế 沒世hết đời. || Không có, chế người không biết chữ gọi là một tự bi沒字碑 ý nói trong lòng không có một chữ nào. Mất tích, như mai một 埋沒 vùi mất, dẫn một泯沒 tan mất, v.v.” (Hán Việt tự điển-Thiều Chửu).
- “Một : Không, không có (một hữu 沒有)① Chìm, lặn: một nhập thủy trung 沒入水中 Chìm xuống dưới nước;... Ẩn, mất: (xuất một 出沒 n hiện” (Từ điển Hán Việt - Trần Văn Chánh, lược trích)
 Nghĩa của từ “một”trong Hán văn là như vậy. Thế nhưng trong ngôn ngữ hàng ngày, hoặc câu kết hợp Hán + Nôm, người ta có dùng “một” với nghĩa là không có, ẩn giấu, chìm lấp, mất  không ? Thưa là có:
- Đại Nam quấc âm tự  vị của Huình Tịnh Paulus Của : “Một歿. Chết, mất: (...) “Làm tờ một hạ: làm giấy khai về sự bị ăn trộm, ăn cướp, cho làng làm chứng”.
- Việt Nam tự điển - Hội Khai Trí Tiến Đức : “Một mất (không dùng một mình) một tích, mai một. Một thú: mất thú: đi chơi không có bạn thật là một thú”.
Kết luận: từ “một” trong câu tục ngữ Một sao, ao nước được hiểu là vắng, không có, chìm mất, ẩn mất. Tục ngữ dùng “một” với ý là sao trời bị chìm lấp, bị che lấp đi bởi mây đen. Một sao, ao nước được hiểu:  Nếu sao đêm bị mây đen che lấp hết thì ngày mai mưa to, ao chuôm đầy nước. (Dị bản nhìn sao để đoán thời tiết: Đông sao thì nắng, vắng sao thì mưa; Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa).
Như vậy, do người sưu tầm (hoặc chính do Nhà ngữ học) không hiểu  tục ngữ “Một sao, ao nước” là gì nên tự ý chữa “một” (tính từ), thành “một”(số từ) và thêm ngôi cho "sao": “Một ngôi sao, một ao nước". Thế nhưng tục ngữ chẳng những không dễ hiểu mà trở nên bế tắc về cách hiểu. Cuối cùng soạn giả từ điển giải thích theo kiểu ngược đời, bất chấp thực tế khách quan.
Lắm thầy rầy ma
Càng có lắm thầy (cúng) bao nhiêu thì lũ ma càng kéo tới quấy rầy bấy nhiêu. Hay dùng để khuyên mọi người chớ có tin những lời nhảm nhí của đám thầy cúng về ma quỷ (vì đó đều là những trò lừa đảo chỉ cốt moi tiền).
Lắm thầy thối ma.
Càng có lắm thầy (lang) bao nhiêu thì các con bệnh càng dễ hóa thành ma thêm bấy nhiêu. Hay dùng để nhắc mọi người là chớ có tin vào các trò chữa chạy của đám lang băm mà dễ bị mất mạng.
Lắm thầy thối ma; lắm cha con khó lấy chồng
Càng có lắm thầy (lang) bao nhiêu thì các con bệnh càng dễ hóa thành ma thêm bấy nhiêu; càng có lắm bậc làm cha (dự phần vào việc chọn chồng cho con) bao nhiêu thì các con càng khó lấy chồng thêm bấy nhiêu.
-Hai dị bản “rầy ma”“thối ma” là đồng nghĩa. Nhưng thật khó hiểu, “rầy ma”(lưu ý: khác ma rầy) được soạn giả giải thích là do “thầy cúng”“lũ ma kéo tới quấy rầy”, còn “thối ma”lại được giải thích là do “thầy lang” nên“các con bệnh dễ hóa thành ma”. (Con bệnh dù nặng đến mấy, khi chưa chết cũng không thể gọi là ma được). Và điều quan trọng cả hai cách hiểu này đều sai.
Câu Lắm thầy rầy ma, hay Lắm thầy thối ma đều liên quan đến cùng một “thầy” đó là thầy cúng. Nghĩa đen được hiểu: khi một người chết (không phải con bệnh như cách hiểu của NĐD) nằm đó, nếu để cho nhiều thầy cúng xem ngày giờ đưa ma, hay chọn huyệt để táng sẽ rất phiền hà. Vì thầy này nói được, thầy kia nói không, lắm ý kiến khác nhau, hậu quả người chết cứ nằm đó, muốn yên thân, mồ yên mả đẹp cũng không xong. Rầy ma là như thế. Thậm chí khi thầy phán chưa chọn được giờ tốt, ngày tốt thì người chết cứ nằm đó đợi, đến mức xác chết bắt đầu phân hủy (thối) còn chưa được chôn. Thối ma là như vậy.
Đất sỏi có chạch vàng
Đất chỉ toàn là sỏi với đá, nhưng sinh sống bên dưới lại là những con chạch bằng vàng.
-Có ai đúc chạch “bằng vàng” yểm dưới đất sỏi chăng ? Xin thưa“Chạch vàng” ở đây không phải là “những con chạch bằng vàng” mà là những con chạch béo vàng-thứ chạch thường sinh sống dưới đất bùn có nhiều màu mỡ. Ở đây, đất sỏi mà lại vẫn có chạch vàng như thường.Ý dân gian muốn nói đến vùng đất tuy khô cằn, nghèo khó nhưng lại sinh ra những nhân tài kiệt xuất, hoặc sản vật nổi tiếng.
Trong Từ điển tục ngữ Việt có những câu soạn giả suy diễn sai hoàn toàn. Ví dụ:
Kẻ ăn rươi người chịu bão
Kẻ muốn ăn rươi nhưng lại bắt người khác phải dầm mưa bão để vớt về cho mình. Hay dùng với ẩn ý: nh. Ngồi mát ăn bát vàng.
-Không ai đi “dầm mưa bão để vớt rươi” cả. Rươi là giống rất mẫn cảm với thời tiết, nên bao giờ nó cũng từ dưới bùn sâu chui lên trước khi thời tiết thay đổi. Giống rươi lại phải thật tươi ăn mới ngon. Thế nên, bắt đầu có rươi là dân đồng sác nhao ra đồng vớt ngay. Nếu gặp phiên chợ thì gánh chạy cho nhanh để kịp bán khi rươi còn sống, bò lúc nhúc. Bằng không cũng phải gánh vội đi bán ở các làng xã lân cận cho kịp. Khi rươi ươn, vỡ bụng, chảy gạch ra coi như hỏng. Thường người ta vớt được rươi lên, hoặc mua rươi về nấu ăn xong, nửa ngày, hoặc một ngày sau đó mới nổi mưa gió trái mùa như hiện tượng bão, gọi là “bão rươi” hoặc “mưa lấp lỗ rươi”. (Câu đố về rươi: Mỗi năm vài bận ra chơi, Làm cho lở đất long trời mới nghe). Chỉ ít dân đồng sác và mấy xã lân cận là được ăn rươi (do số lượng có hạn và rươi khó bảo quản để vận chuyển đi xa bán). Thế nhưng cả tỉnh, cả huyện phải chịu chung cảnh thời tiết mưa bão ấy. Kẻ ăn rươi người chịu bão là như vậy.
Quạ ăn dưa bắt cò dãi nắng
Quạ muốn ăn dưa nhưng lại bắt cò phải dãi nắng (để kiếm dưa về cho mình). Hay dùng với ẩn ý: nh. Kẻ ăn  rươi, người chịu bão.
-Trong thực tế nghĩa đen, làm gì có chuyện con quạ bắt con cò phải dãi nắng “để kiếm dưa về cho mình” ? Không nên suy diễn thay cho lời giải thích câu tục ngữ.
Quạ là giống chim đa thực. Ngoài gà con, xác thối...chúng còn rất thích ăn các thứ quả như mít, dưa hấu…(vào mùa mít rừng chín, chúng khoét vỏ, chui đầu vào ăn, con nào con nấy đầu trọc lóc do bị nhựa mít “vặt” hết lông). Chìa khóa để giải mã câu tục ngữ trên là “Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa”. Thời tiết nắng nhiều khiến quạ được chén những quả dưa ngọt lành. Trong khi đó, cò không ăn được dưa (loài chim này chỉ ăn tôm tép, cá con, côn trùng…) lại phải chịu chung đặc điểm thời tiết nắng nóng chang chang ấy (đôi khi làm cạn nước, chết hết cá tôm, ảnh hưởng đến môi trường kiếm ăn của cò).
Như vậy, hai câu “Kẻ ăn rươi, người chịu bão”“Quạ ăn dưa, bắt cò dãi nắng” ý nói: lợi ích hoặc hoàn cảnh thuận lợi của (nhóm) người này, đôi khi (vô tình) gây trở ngại, khó khăn đối với (nhóm) người khác. Ví như mùa hè nắng nóng kéo dài, dân kinh doanh du lịch biển “hốt bạc”. Trong khi người thường hoặc nông dân cày cấy lại  “lãnh đủ”. Không thể hiểu và dùng với ẩn ý “Ngồi mát ăn bát vàng” như Nguyễn Đức Dương giải thích.
Quan họ thịt gà; giỗ cha thịt ếch
(Thết các liền anh liền chị trong làng) quan họ thì nên dùng thịt gà; (làm giỗ cho cha thì nên dùng thịt ếch).
-Cách giải thích sai lầm nghiêm trọng. Trong các lễ vật dâng cúng, con gà được xem là con vật hiến tế rất quan trọng. Thế nên, không có gà cúng, người ta còn có thể thay bằng quả trứng gà. Gà hay xôi gà là lễ vật sang trọng đối với cả người sống và người chết. Trong khi đó mặc dù thịt ếch thơm ngon, trắng như thịt gà, dân gian hay gọi là gà đồng (gọi theo tên chữ của ếch là điền kê田雞). Nhưng thịt ếch đâu có được coi là loại đồ ăn “ra tấm, ra miếng”; càng không phải là phẩm vật dâng cúng thể hiện sự kính trọng đối với tiền nhân. Do đó, giảng rằng: “(làm giỗ cho cha) thì nên dùng thịt ếch” là cách giải thích liều, không hiểu gì về phong tục tập quán của người Việt. Mặt khác các liền anh, liền chị trong làng quan họ thì liên quan gì đến giỗ cha ?
Thực ra, câu tục ngữ này có hình thức là: Con họ thịt gà; giỗ cha thịt ếch. Cách phát âm của người Thanh Hóa, con phát âm gần giống như cu...ân (quân). Con họ tức là con cháu trong họ. Vì không hiểu con họ là gì nên người sưu tầm tục ngữ (hoặc soạn giả) chữa “quân họ” (con họ) thành “quan họ” rồi giảng sai hoàn toàn nội dung. Câu tục ngữ đang bàn nói cách cư xử trái với lẽ thường, đáng phê phán: Đối với hạng con cháu trong họ thì làm thịt gà thết đãi; đến khi giỗ cha mình (ngày rất quan trọng) lại làm thịt ếch để cúng. Dị bản: Có khách làm thịt kha (gà) giỗ cha làm thịt ếch.
Mưa rừng cọ; gió rừng thông
(Gặp) mưa trong rừng cọ cũng như gió trong rừng thông (thì chớ có lo ướt cũng như lo lạnh vì đã được cọ cũng như thông che chắn hết cho rồi).
-Giải thích như vậy là không hiểu.Thực ra, trong rừng cọ, chỉ cần mấy hạt mưa đã nghe tiếng lào rào, lộp bộp rất lớn do hàng ngàn giọt mưa rơi trên tàu lá cọ (lá cọ bản rộng, dày, cứng). Và trong rừng thông, chỉ cần thoảng làn gió đã nghe vi vút hoặc tiếng rít lên như muôn ngàn ngọn roi quật vào không khí, (do thông là cây lá kim). Thế nên thơ, nhạc hay ví thông reo, thông hát, thông ru là vậy. Câu tục ngữ trên đưa ra nhận xét: Tiếng mưa trong rừng cọ nghe rất lớn, tiếng gió trong rừng thông nghe rất mạnh (so với thực tế).
Nuôi lợn ăn cơm không; nuôi tằm ăn cơm nhộng
Nuôi lợn (chẳng mấy khó nhọc nên) chỉ được ăn cơm không có thức ăn; nuôi tằm (vốn khó nhọc) nên sẽ được ăn cơm với cả nhộng nữa.
 -Ý dân gian không ám chỉ nghề nào vất vả, khó nhọc hơn nghề nào, mà ý nói sự khác biệt giữa hai nghề. Nghề nuôi lợn giống như ống tiết kiệm, dồn mãi tới lúc đầy (lợn béo) mới xẻ thịt hoặc bán một lần duy nhất, không thể mỗi bữa xẻo ra vài miếng thịt mà nấu ăn dần. Tuy nhiên, đối với nghề nuôi tằm, mỗi lứa tằm vài ba tháng, tằm kéo kén ươm tơ có nhộng ăn, người nuôi được thu sản phẩm phụ, trong khi nuôi lợn ngày xưa cả năm mới được một lứa. Nghĩa là mối lợi của nghề nuôi tằm có thể khai thác dần, rải rác mà không cần phải đợi đến lúc ươm, dệt thành tơ lụa mới có
Rau cải làng Tiếu nấu nước điếu ăn cũng ngon
Rau cải (trồng ở ) làng Tiếu (vốn ngon tới độ chỉ) nấu với nước điếu thôi ăn vẫn cứ thấy ngon.
-Cách hiểu và diễn giải của soạn giả khi dùng “chỉ”, “thôi” trong câu khiến bạn đọc hiểu lầm “nước điếu” là loại nước lã bình thường (nấu món canh suông) nhưng khi có rau cải làng Tiếu để nấu thì ăn vẫn cứ thấy ngon. Tuy nhiên, nước điếu có mùi hôi, khắm, vị đắng chát rất khó tả. Lỡ đánh đổ chút ít ra nhà, đến cả người vốn nghiện thuốc lào cũng không chịu nổi cái mùi của nó. Nước điếu độc nên người ta còn dùng để tắm trừ ghẻ cho chó. Thế mà rau cải làng Tiếu thơm ngon, ngọt lành tới độ có thể hóa giải được cả nước điếu, khiến khi nấu canh rau cải với thứ nước “kinh khủng” đó, ăn cũng (vẫn) ngon. Đó là cách nói ngoa dụ. Như thế câu tục ngữ phải được diễn giải là: Rau cải làng Tiếu dẫu có nấu với nước điếu ăn vẫn ngon. Thông thường, một câu tục ngữ có thể được hiểu theo nhiều nghĩa. Tuy nhiên, hiểu theo nghĩa nào cũng phải đảm bảo tính biện chứng. Trong Từ điển tục ngữ Việt,soạn giả Nguyễn Đức Dương có hẳn một hạng mục (được ghi ngoài bìa sách) là “dịch” một số câu tục ngữ gốc Hán. Soạn giả không đưa ra phần nguyên văn chữ Hán, cũng không chú thích nghĩa từ vựng trong câu dẫn đến sai sót khá nghiêm trọng bởi hiện tượng đồng âm, dị nghĩa; đồng tự, đa nghĩa.Ví dụ:
Kỵ hổ nan hạ
Tránh mặt hổ thì khó mà hạ sát được nó.
-Thay vì dùng chữ kỵ  cưỡi, soạn giả lại đưa ra chữ “kỵ” kiêng tránh, sợ; chữ hạ với nghĩa xuống, lại được chọn hạ với nghĩa“hạ sát”. Thoạt nghe cũng có lý. Thế nhưng, giết hổ mà chọn cách đối mặt với hổ là hạ sách, là bất đắc dĩ. Người ta có thể “tránh mặt hổ” mà vẫn giết được hổ dễ dàng bằng cách đặt bẫy, đánh bẫy, nấp bắn. Vậy soạn giả nghĩ sao ? Cần trả lại nghĩa vốn có (đã đi vào lời ăn tiếng nói hàng ngày của dân gian) là:Cưỡi lên lưng hổ thì khó xuống(hay nói Thế cưỡi hổ, hoặc Ở thế cưỡi hổ).
Lộng giả thành chân
Cái giả hễ cứ được mặt sức hành hoành thì dần dà rồi sẽ hóa thành cái chân.Hay dùng để nhắc mọi người đừng để cho cái giả mặc sức hoành hành nhằm tránh xảy ra tình trạng thực giả lẫn lộn.
- Chữ lộngở đây có nghĩa là giở thủ đoạn, lại được soạn giả hiểu nôm na là lộng hành rồi giải thích “Cái giả hễ cứ được mặt sức hoành hành thì dần dà rồi sẽ hóa thành cái chân”. Nghĩa này có thể chấp nhận được.Tuy nhiên, câu tục ngữ phải chữa lại là “Giả lộng thành chân” mới đúng với ngữ pháp tiếng Hán. Bởi vậy, câu tục ngữ “Lộng giả thành chân” phải được hiểu là: Dùng thủ đoạn biến giả thành thật. (Có khi chữ “lộng” cũng được dùng với nghĩa “đùa cợt”: Vờ đùa cợt để biến giả thành thật).
Lương y đa kỳ tật
Các viên thầy thuốc giỏi đa phần đều có lắm thói quen kỳ lạ.
-Chữ “tật” nghĩa là bệnh, “kỳ tật” 奇疾 bệnh lạ, bệnh nặng, bệnh hiểm ác, nhưng bị soạn giả hiểu nôm na “kỳ tật”“thói quen kỳ lạ”.
Thực tế, có nhiều thầy thuốc giỏi, chữa bệnh cho nhiều người nhưng chính mình lại hay bị những chứng bệnh nan y, bệnh lạ mà bản thân không khám, chữa cho mình được. Thế nên, câu thành ngữ này phải được dịch là: Thầy thuốc giỏi hay bị chứng bệnh (lạ) hiểm ác, nói đến sự trớ trêu của nghề thầy thuốc, “Dao sắc không gọt được chuôi”. Câu này cũng có thể được hiểu: Thầy thuốc giỏi thì phải đón nhận lắm con bệnh nan y.
Mệnh do ngã lập; phúc tự kỷ cầu
Số mệnh là do tự mình định đoạt lấy (chứ đâu phải do trời sắp xếp sẵn); phúc đức là do mình tự cầu xin lấy (chứ đâu phải do trời tự ý ban cho).
  -Nếu nói “phúc đức là do mình tự cầu xin lấy” chỉ có nghĩa không cần người khác cầu xin hộ, nhưng vẫn có nghĩa là bản thân mình không tự quyết định được mà phải đi cầu xin người khác mới có.
Như vậy, chữ “cầu” (求)ở đây phải được hiểu nghĩa là tìm, không thể  hiểu nghĩa là cầu xin như dịch giả nhầm lẫn. Câu tục ngữ được dịch là: Số mệnh tự ta định đoạt, hạnh phúc tự mình tìm lấy.
Trong sách có rất nhiều câu tục ngữ mang tính địa phương. Có lẽ do sưu tầm, tuyển chọn từ một số sách (không có phần giải thích) lại thiếu am hiểu thực tế nên soạn giả đã áp dụng phương pháp phi khoa học, đó là phỏng đoán, dẫn đến sai nhiều hơn đúng. Ví dụ:
Măng Kẻ Hếch [?] ; ếch Kẻ Chai [?]; khoai Chiềng Mỹ [?]
(Cá) măng (thì ít thấy nơi nào ngon như loại sống ở) Kẻ Hếch; ếch (thì ít thấy nơi nào béo như là loại sống ở) Kẻ Chai; khoai lang (thì ít thấy nơi nào bùi như là loại trồng ở) Chiềng Mỹ.
Trong câu có 3 địa danh thì cả 3 địa danh soạn giả đều (đặt dấu ?) tỏ ý không biết nó nằm địa phận tỉnh, huyện, xã... nào, đặc điểm gì làm nên câu tục ngữ ấy nhưng vẫn giải thích. Thử hỏi “măng” đây có đúng là  “cá măng” hay là măng tre, luồng ? “Khoai” là “khoai lang” hay là cá khoai ? Nếu “măng” được soạn giả đoán là cá măng, thì “khoai” cũng có thể là cá khoai lắm chứ ? Hoặc “ếch Kẻ Chai” liệu có phải ý nói “ếch béo” hay thực tế là nhiều ếch, hoặc ếch to mới đúng ? Cách làm này chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều trong sách Từ điển tục ngữ Việt.
Lạm dụng phương pháp phỏng đoán, tất có lúc phạm sai lầm không thể biện hộ. Ví dụ:
Bồ Bất Căng, năng [?] Kẻ Chè.
Bồ thì ít thấy ở đâu đan tốt như là Bất Căng; năng [?] thì ít thấy ở đâu làm khéo như là Kẻ Chè.
Ta thấy trong câu này, soạn giả không hiểu “năng” là cái gì nhưng vẫn “tự tin” giải thích “năng [?] thì ít thấy ở đâu làm khéo như là Kẻ Chè”. Hơn nữa, Bất Căng không phải chỉ nổi tiếng do “đan bồ tốt” mà là đất chuyên nghề đan lát; “bồ” chỉ là một sản phẩm đại diện khi nói về nghề đan ở đây mà thôi. Theo đó, Kẻ Chè cũng không chỉ được biết đến bởi nghề đúc “năng” (tiếng Thanh Hóa gọi cái nồi 2 bằng đồng là “năng”) mà sản phẩm này chỉ là ví dụ cho nghề đúc đồng nổi tiếng (nồi niêu, xoong, chảo, mâm, thậm chí cả... trống đồng) của làng Chè mà thôi.
Nem xứ Huế; quế xứ Thanh
Nem (thì ít thấy ở đâu gói ngon như ở) Huế; quế (thì ít thấy ở đâu lắm như ở) Thanh Hóa).
-Vẫn là đoán mò. Và cách giải thích này nghe ra rất có lý...đối với những người không biết ! Nhưng, quế Thanh Hóa nổi tiếng không phải do “ít thấy ở đâu lắm như ở” Thanh Hóa mà là không ở đâu tốt bằng Thanh Hóa. (Quảng Ngãi, Yên Bái, Nghệ An nhiều quế không kém gì Thanh Hóa). Quế Thanh (thường gọi là Quế Ngọc châu Thường-vùng đất huyện Thường Xuân ngày nay) được cổ kim đánh giá là tốt nhất bởi thứ tinh dầu đặc biệt của nó. Ngày xưa vua nhà Nguyễn thường dùng quế Thanh để ban thưởng cho các quan (xem Đại nam thực lục - Quốc sử quán triều Nguyễn)
Phần chú thích địa danh, rất nhiều câu soạn giả vẫn còn đặt dấu chấm hỏi (do chưa tìm hiểu, khảo cứu) khiến cho độc giả cảm tưởng, mình đang được đọc một bản thảo chưa hoàn chỉnh. Xin đưa ra một vài ví dụ:
Lê Chằm Vạc; Mạc Đại An
-Chú thích: “Chằm vạc dt. Ngôi làng nằm trên địa phận xã...[?], huyện...[?], tỉnh Hải Dương hiện thời. Đại An dt. Ngôi làng nằm trên địa phận xã ...[?] huyện Ý Yên/ Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định hiện thời. (tr.511) Hoặc Đinh Cao Bộ; điền Khê Tang. Chú thích: “Cao Bộ dt. Ngôi làng nằm trên địa phận xã...[?], huyện...[?] tỉnh Hà Tây hiện thời. Khê Tang dt. Ngôi làng nằm trên địa phận xã...[?], huyện...[?] tỉnh Hà Tây hiện thời. Rồi Đinh Quảng Nguyên, điền Quảng Tái. Chú thích:“Quảng Nguyên dt. Ngôi làng nằm trên địa phận xã...[?], huyện...[?], Quảng Tái dt. Ngôi làng nằm trên địa phận xã...[?], huyện...[?], (tr. 335) v.v...
-Trong Từ điển tục ngữ Việt, mục “Nhận diện tục ngữ” Tiến sĩ Nguyễn Đức Dương cho rằng có những sách “quá xem nhẹ chất lượng và bỏ ngoài tai lời khuyên của ông bà ta được đúc kết trong câu châm ngôn: “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Thế nhưng chính tác giả (không rõ do không phân biệt được thế nào gọi là dị bản, hay cố tình muốn cho sách dày thêm) dẫn ra quá nhiều những câu không đáng gọi là dị bản. Mặt khác giải thích đi, giải thích lại một câu đã quá rõ nghĩa là điều hoàn toàn không cần thiết. Xin được đưa ra một vài ví dụ:
Câu “Ao sâu béo cá; độc dạ khốn thân” được Nguyễn Đức Dương đưa ra tất cả 11 “dị bản”.Thế nhưng chúng ta phải đọc thật kỹ, thật chậm để so sánh mới phân biệt được chúng “dị’ ở điểm nào:
Ao sâu béo cá; độc dạ khốn thân
Ao mà sâu thì tôm cá ắt càng béo tốt; lòng dạ mà hiểm độc thì ắt phải chịu đủ mọi thứ khốn đốn ở đời. Hay dùng để khuyên mọi người hãy ăn ở cho nhân đức nhằm tránh phải hứng chịu mọi thứ khốn đốn ở đời.
Ao sâu béo cá, hiểm dạ hư thân
Ao càng sâu thì tôm cá ắt càng béo tốt; lòng dạ càng hiểm độc thì thân ắt càng trở nên hư đốn thêm. Hay dùng với ẩn ý nh. Ao sâu béo cá, độc dạ khốn thân.
Ao sâu tốt cá; độc dạ hư mình
Như Ao sâu tốt cá; độc dạ hư thân.
Ao sâu tốt cá; độc dạ hư thân
Ao càng sâu thì tôm cá ắt càng béo tốt; lòng dạ càng hiểm độc thì thân ắt càng trở nên hư đốn them. Hay dùng với ẩn ý nhAo sâu béo cá độc dạ khốn thân.
Ao sâu tốt cá; độc dạ khốn thân
Ao càng sâu thì tôm cá ắt càng béo tốt; lòng dạ càng hiểm độc thì thân ắt sẽ phải chịu đủ mọi thứ khốn đốn ở đời. Hay dùng với ẩn ý: nh. Ao sâu béo cá; độc dạ khốn thân.
Ao sâu tốt cá; hiểm dạ hư mình
Như. Ao sâu tốt cá; hiểm dạ khốn thân.
Ao sâu tốt cá; hiểm dạ hư thân
Nh. Ao sâu tốt cá; hiểm dạ hư mình.
Ao sâu tốt cá; hiểm dạ khốn thân
Ao càng sâu, thì tôm cá ắt càng béo tốt; lòng dạ càng hiểm độc thì thân ắt càng phải chịu đủ mọi thứ khốn đốn ở đời. Hay dùng với ẩn ý: nh. Ao sâu béo cá; độc dạ khốn thân.
Sâu ao lắm cá; độc dạ hư mình
Nh. Sâu ao lắm cá, độc dạ hư thân.
Sâu ao lắm cá; độc dạ hư thân
Ao càng sâu thì càng có lắm tôm cá; lòng dạ càng hiểm độc thì thân càng phải hứng chịu lắm điều chẳng may.
Sâu ao lắm cá; độc dạ khốn thân
Ao càng sâu thì càng có lắm tôm cá; lòng dạ càng độc ác thì thân càng phải hứng chịu lắm điều chua cay.
Cứ theo cách đảo từ, thay từ đồng nghĩa để tạo ra “dị bản” thì câu tục ngữ còn có thể nhân ra rất nhiều bản nữa, ví dụ:
Hoán từ tốt cá thành cá tốt, lắm cá thành cá lắm, đổi từ lắm cá thành nhiều cá…rồi lần lượt cho kết hợp với câu độc dạhiểm dạ, rồi lại hư thân, hư mình, khốn thân. Như  “Ao sâu cá tốt, độc dạ khốn thân” rồi “Ao sâu cá lắm, độc dạ khốn thân” hoặc “Sâu ao nhiều cá, độc dạ khốn thân”.
-Hoán từ  độc dạ thành dạ độc,hiểm dạ thành dạ hiểm rồi lần lượt cho kết hợp với câu có từ khốn thân, hư mình, hư thân,v.v…chúng ta sẽ có hàng trăm cái gọi là “dị bản” mà thực chất chỉ là cách dùng từ đồng nghĩa của người sử dụng câu tục ngữ mà thôi.
Chúng ta còn bắt gặp ở rất nhiều trường hợp khác:
Ăn kỹ no lâu, cày sâu tốt đất
Ăn kỹ lưỡng thì (bụng sẽ cảm thấy no lâu (vì đỡ mất công giành giật); cày cho sâu thì đất (dễ tơi xốp hơn, nên cũng dễ) tốt lên.
Ăn kỹ no lâu, cày sâu tốt lúa
Ăn kỹ lưỡng thì bụng sẽ cảm thấy no lâu (vì đỡ mất công giành giật) cày cho sâu thì (đất dễ tơi xốp hơn nên) lúa cũng nhờ thế mà trở nên tốt hơn).
Ăn kỹ no lâu, cày sâu tốt ruộng
Ăn từ tốn thì bụng sẽ cảm thấy no lâu (vì miệng vẫn còn lưu giữ được mọi vị ngon của các thứ được ăn); còn cày sâu thì (đất dễ tơi xốp hơn nên) ruộng cũng nhờ thế mà trở nên tốt hơn.
 Nhân tiện xin nói luôn: cách giải thích mấy “dị bản” trên cũng để lại nhiều thắc mắc cho độc giả. Ví dụ: Vì sao hai bản đầu giải thích “Ăn kỹ no lâu” là vì “đỡ mất công giành giật” đến bản thứ ba cũng vẫn là “Ăn kỹ no lâu” lại được giải thích là “vì miệng vẫn còn lưu giữ được vị ngon...”  Hoặc sao lại “đỡ mất công giành giật”; ai “giành giật” với ai ?
Nhìn chung, với sách biên soạn, (đặc biệt là lĩnh vực tục ngữ, thành ngữ) khó tránh khỏi sai sót. Tuy nhiên, tỉ lệ sai sót, mức độ sai sót, hạn chế (số lượng hàng trăm câu) như Từ điển tục ngữ Việt của Nhà ngữ học TS Nguyễn Đức Dương là quá lớn. Nếu đọc kỹ, chúng ta sẽ còn nhận thấy không ít lỗi về từ vựng, cách giải nghĩa, cách diễn đạt, từ ngữ,v.v...mà khuôn khổ bài viết này không thể nêu hết (*). Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương nhiều lần kêu gọi các nhà biên soạn sách giáo khoa đưa “di sản tục ngữ” vào nhà trường (xem Bài “Sao không đưa tục ngữ vào giảng dạy ở bậc tiểu học” - Báo Thanh Niên). Đề xuất này không có gì sai. Tuy nhiên, nếu các em học sinh tiếp thu “di sản tục ngữ” thông qua “kênh” Từ điển tục ngữ Việt của Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương với những “sai lệch” như trên thì thật nguy hại !

                                                                                     H.T.C
 Một phần nội dung bài viết này đã đăng Tạp chí Văn hóa dân gian - Viện nghiên cứu Văn hóa số 4 tháng 8/2013).Bạn đọc có thể tham khảo thêm tại tuancongthuphong.blogspot.com.

Một số thông tin thêm
 Từ điển tục ngữ Việt - tác giả Tiến sĩ Nguyễn Đức Dương - Trung tâm biên soạn từ điển Ngôi Sao - Ban biên soạn từ điển đơn ngữ - Nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh - 2010.
Lời NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh: Từ điển Tục ngữ Việt của nhà ngôn ngữ học - Tiến sĩ  Nguyễn Đức Dương là một công trình biên soạn công phu, hoàn toàn dựa theo những tiêu chí mới về cách thu thập dữ liệu, cũng như cách diễn giải từng câu tục ngữ trong các đề mục. Với quy mô và phương pháp nghiên cứu khoa học, cập nhật nội dung, có thể nói đây là quyển Từ điển tục ngữ Việthoàn chỉnh nhất hiện nay... một công trình nghiên cứu chuẩn hóa về tục ngữ Việt”. Lời người biên soạn: “Quyển Từ điển này khác với nhiều công trình cùng loại đã ra mắt bạn đọc trước đây ở hai điểm chính: (1) ở cách thức thu thập dữ liệu và (2) ở cách thức diễn giải dữ liệu...Quyển Từ điển này ra mắt bạn đọc được là nhờ sự giúp đỡ chí tình cả về tinh thần lẫn vật chất của GS. Cao Xuân Hạo, nhà khảo cứu An Chi, nhà giáo Hoàng Xuân Tâm, PGS Hoàng Dũng, PGS Bùi Mạnh Hùng”. Theo đó, Tiến sĩ Nguyễn Đức Dương cho rằng Từ điển tục ngữ Việt sẽ tránh được những sai lầm “phải trả giá, lắm khi rất đắt” của một số cuốn từ điển khác.
- Những sách đã dẫn và tham khảo:
1,“Đại Nam quấc âm tự vị”(Dictionnaire ANNAMMITE) Huình Tịnh Paulus Của - Sài Gòn 1895.
2,Việt Ngữ Tinh nghĩa từ điển - Long Điền Nguyễn Văn Minh -NXB Quảng Vạn Thành- Hà Nội 6/1950.
3,Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam - GS Nguyễn Lân (NXB Văn Hóa - 1989)
4,Việt Nam tự điển - Hội Khai Trí Tiến Đức - Nhà in Trung Bắc Tân Văn - 1931 (bản Scan của vietnamtudien.org )
5, Từ điển An Nam-Lusitan-La tinh (Thường gọi Từ điển Việt - Bồ - La) Alexandre De Rhodes - Phiên dịch: Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính - NXB Khoa Học Xã Hội - 1991.
6, Tự điển Hán Việt - Trần Văn Chánh -NXB Từ điển bách khoa-2011).
7, Điển Cố văn học - Đinh Gia Khánh chủ biên - Nhà XB Khoa học xã hội - Hà Nội 1977.
8, Hán Việt tự điển - Thiều Chửu - NXB Thành phố Hồ Chí Minh - 2004.
9. Hán Việt Từ điển - Đào Duy Anh biên soạn - Hãn Mạn Tử hiệu đính - NXB Trường Thi - Sài Gòn 1957.
10. Khang Hy tự điển - 2002 (sách ngoại văn xuất bản tại Trung Quốc)
 







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét