Thứ Ba, 26 tháng 8, 2014

Chuyện như đùa của “Em là Hải Lý” và báo Đất Việt

Hình ảnh báo Đất Việt trên Lều báo.vn
         Hoàng Tuấn Công

Sau khi đăng bài "Đả thảo kinh xà và màn Kim thiền thoát xác của báo Đất Việt", Tuấn Công thư phòng nhận được một phản hồi như sau:
 Em là Hải Lý, người ký tên dưới bài viết đăng trên báo Đất Việt. Em mới là sinh viên thực tập nên nhiều vấn đề về làm báo còn chưa hiểu rõ hết. Em đọc được bài báo của Blog Tuấn Công Thư Phòng trên leubao.vn và chỉ đơn giản nghĩ là "mượn" những lý lẽ của tác giả trong phần chỉ ra sự ngụy tạo của bài văn, còn phần bình luận phía sau là chỉ đơn thuần hướng đến sự hưởng ứng của mạng xã hội gây nên tình trạng những trò nhảm nhí, vô bổ được chia sẻ tràn lan.
Phần tác giả bình luận về các trang báo điện tử hiện nay em không nhắc đến. Em vẫn tôn trọng ý kiến của tác giả và ghi nguồn rõ ràng. Thế nên mong tác giả blog hiểu và thông cảm cho em. Còn ý kiến của tác giả cho rằng Báo Đất Việt diễn màn Kim thiền thoát xác thì em xin phép không có ý kiến, bởi em chỉ là người gửi bài, còn đăng hay không và đăng với mục đích gì là của người biên tập. Em xin rút kinh nghiệm và một lần nữa mong tác giả thông cảm cho 1 người chưa có kinh nghiệm nghề nghiệp như em”.

Nguyễn Thị Hải Lý
5 ngày trước  -  Được chia sẻ công khai

Em là Hải Lý, người ký tên dưới bài viết đăng trên báo Đất Việt. Em mới là sinh viên thực tập nên nhiều vấn đề về làm báo còn chưa hiểu rõ hết. Em đọc được bài báo của Blog Tuấn Công Thư Phòng trên leubao.vn và chỉ đơn giản nghĩ là "mượn" những lý lẽ của tác giả trong phần chỉ ra sự ngụy tạo của bài văn, còn phần bình luận phía sau là chỉ đơn thuần hướng đến sự hưởng ứng của mạng xã hội gây nên tình trạng những trò nhảm nhí, vô bổ được chia sẻ tràn lan. Phần tác giả bình luận về các trang báo điện tử hiện nay em không nhắc đến. Em vẫn tôn trọng ý kiến của tác giả và ghi nguồn rõ ràng. Thế nên mong tác giả blog hiểu và thông cảm cho em. Còn ý kiến của tác giả cho rằng Báo Đất Việt diễn màn Kim thiền thoát xác thì em xin phép không có ý kiến, bởi em chỉ là người gửi bài, còn đăng hay không và đăng với mục đích gì là của người biên tập. Em xin rút kinh nghiệm và một lần nữa mong tác giả thông cảm cho 1 người chưa có kinh nghiệm nghề nghiệp như em.
Hiển thị bớt
Thấy phản hồi có tên tuổi đầy đủ, địa chỉ rõ ràng kèm ảnh, tôi nghĩ có lẽ “Em là Hải Lý” không phải là một nhân vật “ngụy tạo” như "bài văn của trẻ...", nên trả lời: “Bài viết của tôi chỉ đích danh báo Đất Việt và một số báo khác đã cho đăng “Bài văn của trẻ...” mạo danh trẻ em Tiểu học viết thư cho bố là lính đảo với nội dung, ý đồ rất đáng xấu hổ. Vậy, tại sao bạn (tức “Em là Hải Lý”) lại lấy chính bài viết này sửa chữa theo chiều hướng có lợi cho báo Đất Việt, đổ lỗi hoàn toàn cho độc giả rồi đề tên “Hải Lý (theo Blog Tuấn Công thư phòng)”? Báo Đất Việt có thể không biết bạn đã sửa chữa, thêm bớt những gì trong bài của tôi, nhưng tất phải biết trước đó bản Báo đã đăng bài gì và giờ đây lại thay bằng bài viết như thế nào chứ ? Phần đầu bài viết của tôi, bạn nói chỉ "mượn" những lý lẽ của tác giả trong phần chỉ ra sự ngụy tạo của bài văn”, còn phần sau “bình luận về các trang báo điện tử hiện nay”(có tên báo Đất Việt) bạn “không nhắc đến” rồi tự ý viết thêm lời, chỉ trích độc giả. Vậy mà bạn nói “Em vẫn tôn trọng ý kiến của tác giả và ghi nguồn rõ ràng” được sao ? Chính báo Đất Việt tham gia vào “những trò nhảm nhí, vô bổ được chia sẻ tràn lan” như bạn nói (phản hồi của bạn đọc chúng tôi còn ghi lại) sao bây giờ lại quay sang lên án bạn đọc, đổ lỗi cho người khác ? Mấy năm ở trường, bạn được họchọc được những gì ? Học Báo chí đã đến lúc đi viết bài thực tập mà còn “ngây thơ” đến vậy sao ?"
Tôi nghĩ, xem ra “Em là Hải Lý” không phải là một nhân vật “ngụy tạo”, nhưng lời lẽ lại rất ngụy biện. “Em” nói “vẫn tôn trọng ý kiến của tác giả và ghi nguồn rõ ràng”. Nếu đúng vậy, “Em” đâu có lỗi gì mà “mong tác giả blog hiểu và thông cảm cho em” ? “Một người chưa có kinh nghiệm nghề nghiệp như em” học chưa thông, viết chưa thạo, sao giỏi chống chế và lươn lẹo đến thế ?
Tôi cứ nghĩ dẫu “Em là Hải Lý” không đưa ra một lời xin lỗi nhưng chắc sẽ đề nghị báo Đất Việt gỡ bài đăng. Thế nhưng, "mẹ hàng lươn" thì mất hút, còn bài viết “Sự ngụy tạo ác ý trong “Bài văn của trẻ khiến giáo viên và phụ huynh ngã ngửa” của “Hải Lý (theo Blog Tuấn Công thư phòng)” đăng trên báo Đất Việt vẫn thấy trơ trơ với một phản hồi bức xúc của bạn đọc: “Chính tác giả mới là người câu like!” Tác giả là ai ? Dĩ nhiên, bạn đọc sẽ cho tác giả là “Blog Tuấn Công thư phòng” chứ đâu nghĩ ra màn “Kim thiền thoát xác”“Tương kế tựu kế” của báo Đất Việt ?
Chiều ngày 26/8/2014, xem lại bài của “Hải Lý (theo Blog Tuấn Công thư phòng)” đăng trên báo Đất Việt, thấy “Ban Biên tập” có một thay đổi: Tít bài cũ“Bài văn của trẻ khiến giáo viên và phụ huynh ngã ngửa” của Đất Việt được sửa lại thành: “Sự ngụy tạo trong bài văn khiến giáo viên và phụ huynh ngã ngửa”; phía dưới vẫn giữ nguyên tên bài “Sự ngụy tạo ác ý trong “Bài văn của trẻ khiến giáo viên và phụ huynh ngã ngửa”và nội dung kiểu “Hồn Trương Ba, Trương Bốn, da Hàng Thịt, Hàng Tôm” xào xáo, đánh tráo khái niệm bài của Tuấn Công thư phòng mà chúng tôi đã nói đến trong bài “Đả thảo kinh xà” và màn “Kim thiền thoát xác” của Báo Đất Việt". Vậy là vết tích cuối cùng của “Bài văn của trẻ khiến giáo viên và phụ huynh ngã ngửa” mà chúng tôi phê phán trên báo Đất Việt đã hoàn toàn biến mất.
Làm sai thì sửa, có lỗi thì xin lỗi, đó là lẽ thường trong ứng xử giữa người với người, cũng là quy định của luật Báo chí, sao báo Đất Việt-Diễn đàn của Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam lại chọn cách hành xử thiếu đường hoàng như vậy ? Báo đất Đất Việt dạy “Em là Hải Lý” - một Nhà báo tương lai của đất Việt "thực hành" cách ứng xử loanh quanh, lươn lẹo, thiếu trung thực trong nghề như vậy sao ?

          Trong bài “Đả thảo kinh xà” và màn “Kim thiền thoát xác” của Báo Đất Việt"  ban đầu chúng tôi có viết: “Qua hai vụ: "Gái miền Tây và 3 chữ “N” nổi danh thiên hạ"  "Bài văn của trẻ khiến giáo viên và phụ huynh ngã ngửa", chúng tôi lấy làm ngạc nhiên với quy trình sản xuất bài vở của các báo đăng những bài này. Cảm tưởng như tờ báo không có Tổng biên tập hay Biên tập. Ai viết được gì, nhặt được gì đem về xào xáo rồi tự đăng lên”. Đoạn in nghiêng, gạch, chúng tôi cân nhắc, cuối cùng xóa bỏ vì sợ đó chỉ là “cảm tưởng”...Sau khi nghe “Em là Hải Lý”giãi bày, và theo dõi cách ứng xử của báo Đất Việt, chúng tôi lại “cảm tưởng” quy trình làm báo ở Đất Việt giống như một trò đùa trẻ con vậy !

Tuấn Công Thư Phòng và bạn đọc tiếp tục chờ đợi một lời giải thích và xin lỗi chính thức từ báo Đất Việt.
                                                                  HTC/8/2014


Thứ Hai, 25 tháng 8, 2014

Nguyễn Cừ đã “Giải Nghĩa Tục Ngữ Việt Nam” như thế nào ? (phần cuối)

Hoàng Tuấn Công

Làm sách khảo cứu, biên soạn cũng giống như dựng một ngôi nhà. Với tư cách tác giả, người ta phải một mình làm tất cả. Từ chuyện lo vật liệu đến thiết kế, thi công, giám sát kỹ thuật... Muốn cho ngôi nhà vừa có kiểu dáng độc đáo của riêng mình, vừa hội tụ được tinh hoa kiến trúc của thiên hạ, giá trị sử dụng cao, cha đẻ của nó phải đi tham khảo nhiều công trình khác nhằm kế thừa cái hay, cái đúng; tránh cái dở, cái sai của người đi trước.

Ngoài ra, trong muôn vàn loại vật liệu kiến trúc, tác giả công trình còn phải tìm cách phân biệt thật giả, tiếp cận được loại vật liệu "thứ thiệt", kỹ thuật thi công phải ưu việt hơn so với cái cũ để đảm bảo cho ngôi nhà bền đẹp, trường tồn với thời gian. Để làm nên công trình “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” Nguyễn Cừ cho biết: “đã tham khảo rất nhiều cuốn sách liên quan đến tục ngữ, thành ngữ, đã trao đổi và học hỏi nhiều ý kiến của các chuyên gia văn hoá học, dân tộc học, ngôn ngữ học, các bạn đồng nghiệp và ý kiến bạn đọc.” Tuy nhiên, nhìn vào thư mục tham khảo của Nguyễn Cừ, người ta thấy ông sớm thất bại ngay từ khâu chuẩn bị vật liệu.

Nguyễn Cừ nói: “đã tham khảo rất nhiều cuốn sách liên quan đến tục ngữ, thành ngữ” nhưng thực tế lại thấy ông đã: tham khảo rất nhiều cuốn sách liên quan đến ca dao, dân ca, hát ví, hát phường vảiTrong 19 đầu sách, đáng chú ý chỉ có: “Tục ngữ phong giao” (Nguyễn Văn Ngọc, NXB Minh Đức-Hà Nội 1957, 2 tập) “Tục ngữ Việt Nam” (Chu Xuân Diên-Lương Văn Đang-Phương Tri-NXB Khoa học xã hội-1975); “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” (Vũ Ngọc Phan-in lần đầu NXB Văn Sử Địa-1956, sửa chữa và tái bản nhiều lần)...  Ngoài một số sách văn học dân gian nói chung của các địa phương: Thái Bình, Bến Tre, Hà Tây.., có tới nửa số đầu sách mang những cái tên như: Ca dao trước cách mạng-Viện văn học-NXB Văn học-1963) Ca dao sưu tầm ở Thanh Hoá-Nhóm Lam Sơn-NXB Văn học-1963) Ca dao Nghệ Tĩnh-Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao-Sở VHTT Nghệ Tĩnh-1984) Ca dao, dân ca Nam Bộ-Nhóm Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát...NXB Tổng hợp TPHCM) Ca dao trữ tình Việt Nam-Vũ Duy...NXB Văn học, Hát ví Nghệ Tĩnh-NXB Văn hóa-1961) Hát phương vải-Ninh Viết Giao-NXB Văn hoá-1961)... Trong khi đó, loại sách từ điển giải thích thành ngữ, tục ngữ lại hoàn toàn vắng bóng (đây là một bất lợi và thiệt thòi lớn cho Nguyễn Cừ). Không ai phủ nhận tác dụng nghiên cứu, tham khảo tổng hợp các thể loại văn học dân gian đối với tục ngữ. Tuy nhiên, nếu nói rằng nó phục vụ trực tiếp cho một công trình như "Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam" thì không. Làm như vậy chẳng khác nào một người muốn dựng ngôi nhà Việt cổ truyền nhưng lại tìm đến ngôi nhà sàn Thái, hoặc biệt thự cao tầng để tham khảo, học tập.

Không biết Nguyễn Cừ Nguyễn Cừ đã trao đổi, học hỏi và tham khảo những gì trong số 19 đầu sách. Nhưng chỉ cần lấy 2 cuốn: “Tục ngữ Việt Nam” (Nhóm Chu Xuân Diên) và “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” (Vũ Ngọc Phan) để so sánh cũng đủ đưa ra nhận xét: tác giả "Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam" có "tham" nhưng không "khảo". Hoặc có "khảo" nhưng làm ngược lại: cái đúng, cái hay thì không tiếp thu; cái dở, cái không chính xác lại được Nguyễn Cừ sử dụng.
          1.Về phương pháp luận:
 "Tục ngữ Việt Nam"- Nhóm Chu Xuân Diên (CXD) và "Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam"- Vũ Ngọc Phan (VNP) đã thống nhất định nghĩa, phân biệt tục ngữ với thành ngữ, tục ngữ với ca dao. Tuy chưa làm công việc giải nghĩa tục ngữ nhưng 2 cuốn sách này đã thực hiện khá tốt việc sưu tầm tập hợp, phân loại những đơn vị thuần tục ngữ, đáng được gọi là tục ngữ Việt Nam (đặc biệt là cuốn “Tục ngữ Việt Nam” với phần tiểu luận công phu của Chu Xuân Diên) Theo tôi, Nguyễn Cừ chỉ cần tham khảo và sử dụng phần lớn các câu tục ngữ đã được Nhóm Chu Xuân Diên và Vũ Ngọc Phan sưu tầm phân loại để "giải nghĩa" đến nơi đến chốn đã là quá đủ, thậm chí là quá sức. Tuy nhiên, (như chúng tôi đã trình bày trong Phần I bài viết), Nguyễn Cừ đã không nhận ra con "đường quang" của người đi trước để kế thừa, phát huy...Hậu quả: ông đã nhận lầm thành ngữ ra tục ngữ, thậm chí không hiểu tục ngữ là gì khi đưa vào sách "Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam" phần lớn những đơn vị chỉ là thành ngữ, ngữ danh từ, câu đố, quán ngữ, cụm từ láy hoặc cụm từ đơn thuần như: Xấu như ma, Dai như đỉa đói, Con đóng khố, bố cởi truồng, Lép ba, lép bép; Lệt bà lệt bệt; Tuần trăng mật, Cạo đầu đi tu, Mưa bóng mây, Ái nam ái nữ, Rét nàng Bân... những thứ gần như hoàn toàn vắng bóng trong phần tục ngữ của Nhóm Chu Xuân Diên và Vũ Ngọc Phan.
2.Vấn đề “chữ tác đánh chữ tộ”:
          Hiện tượng “chữ tác đánh chữ tộ” chúng tôi chỉ ra trong phần III loạt bài viết cũng xuất phát từ nguyên nhân Nguyễn Cừ chưa xử lý được tư liệu, không phân biệt được cái nào sai, cái nào đúng; có khi bỏ cái đúng, theo cái sai:
a.Không xử lý được tư liệu:
Sách "Tục ngữ Việt Nam" của Nhóm Chu Xuân Diên (CXD) và "Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam"- Vũ Ngọc Phan ngoài phần nghiên cứu, các tác giả chỉ làm nhiệm vụ sưu tầm tập hợp chứ chưa làm công việc tuyển chọn và giải thích, (như chính Nhóm Chu Xuân Diên đã lưu ý “đây không phải là một “tuyển tập” mà là một “sưu tập”). Nhóm tác giả “sưu tập”ở đâu ? Lời dẫn sách cho biết họ “sưu tập”  từ hai nguồn: “những sưu tập tục ngữ (thường được biên soạn lẫn với thành ngữ và ca dao) đã công bố trên sách báo”“những tài liệu được sưu tầm trực tiếp trong nhân dân”. “Nhân dân” là ai ? Là những cá nhân cụ thể đã cung cấp tư liệu, những dị bản tục ngữ cho các nhà sưu tầm. Bởi vậy, họ có thể đúng, có thể sai, có thể nhầm lẫn...Tuy nhiên, giống như công việc của người sưu tầm cổ vật đang có nguy cơ mai một, trước mắt phải tận thu, "vơ vét" cái đã. Chuyện giám định giá trị thực của cổ vật đến đâu sẽ được tiến hành ở những bước tiếp theo. Việc sưu tập nhiều dị bản tục ngữ của Nhóm Chu Xuân Diên cũng là một cách tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu tìm tòi, tiếp cận sau này. Là người đi sau, đáng ra Nguyễn Cừ phải xử lý lại tư liệu, xem đúng sai đến đâu, rồi tuyển chọn dị bản hay nhất, đúng và phổ thông nhất để giải nghĩa. Tuy nhiên, nhiều câu bị sai lạc về văn bản (do người cung cấp tư liệu nhớ nhầm hoặc lỗi đánh máy...) vẫn được Nguyễn Cừ “tuyển chọn” và tìm cách “giải nghĩa”, bất chấp sự vô lý của nó. Ví dụ:
-Được cãi cầm, thua cãi cố (dị bản của Nhóm CXD)
Nguyễn Cừ suy diễn chữ "cầm" này là: kẻ được thì cãi cầm chừng rồi mang về (!) Tuy nhiên, “Được cãi cùng, thua cãi cố” mới đúng.
-Chó chê khỉ lắm lông, khỉ chê chó ăn rông ăn dài (CXD)
Chính xác “Chó chê mèo lắm lông, chó cũng cùng tông với mèo” mới có lý. Mặt khác "Rông rài" chứ không phải "rông dài". Sách viết sai chính tả (hay do lỗi đánh máy ?) nhưng Nguyễn Cừ không hề "khảo", cứ thế bê nguyên vào sách.
-Hơi có đã khoe mình đẹp (CXD)
"Mã" tuy không sai, nhưng không đúng với cách gieo vần của dân gian. Chính xác là: “Hơi có mẽ đã khoe mình đẹp”
-Giặc đến nhà đàn bà phải đánh (VNP)
Nói thế hóa ra việc đánh giặc là của đàn bà ? Chính xác phải là: “Giặc đến nhà đàn bà cũngđánh”
-Thua trời một vạn, không bằng thua bạn một ly (CXD-VNP)
 “Thua thầy” chứ không phải “thua trời”. Định so tài cao thấp, làm mưa, làm gió với trời sao ?
v.v...
Nguyễn Cừ không "đọc kỹ hướng dẫn trước khi  sử dụng", hay “Vào rừng không biết lối ra, Thấy cây núc nác ngỡ là vàng tâm” ? (bạn đọc tham khảo phần phân tích cụ thể của chúng tôi ở phần III )
b/Bỏ cái đúng, theo cái sai:
Nhiều câu tục ngữ Nhóm Chu Xuân Diên và Vũ Ngọc Phan đưa ra dị bản đúng, nhưng Nguyễn Cừ lại bỏ cái đúng để theo cái sai. Vì không có đủ 19 đầu sách tham khảo của Nguyễn Cừ nên chúng tôi không biết đó là sáng tạo của riêng ông, hay ông đã theo cái sai ở sách nào. Ví dụ:
-Chu Xuân Diên: Một con tằm cũng phải hái dâu, Một con trâu cũng phải đứng đồng (đúng)
+Nguyễn Cừ: Một con tằm cũng phải hái dâu, Một con trâu cũng phải thả đúng đồng (sai)
-Chu Xuân Diên: Vịt già, gà tơ (đúng)
+Nguyễn Cừ: Vịt già, gà to (sai)
-Chu Xuân Diên: Lá lành đùm lá rách (đúng)
+Nguyễn Cừ: Lá lành đùm lá rách, lá rách đùm lá lành (thừa, sai)
-Chu Xuân Diên, Vũ Ngọc Phan: Trời nắng chóng trưa, trời mưa chóng tối (đúng)
+Nguyễn Cừ: Trời nắng chóng mưa, trời mưa chóng tối (sai)
-Vũ Ngọc Phan: Nén bạc đâm toạc tờ giấy (đúng)
+Nguyễn Cừ: Đồng bạc đâm toạc tờ giấy (sai)
-Chu Xuân Diên: Mua áo thì rẻ, mua giẻ thì đắt (đúng)
+Nguyễn Cừ: Mua áo thì rẻ, mua rẻ thì đắt (sai)
Tại sao đúng, tại sao sai, chúng tôi đã phân tích, chứng minh cụ thể trong phần III bài viết.
Như vậy, Nguyễn Cừ có đến “tham quan” hai “ngôi nhà” của Nhóm Chu Xuân Diên và Vũ Ngọc Phan, nhưng cái đáng học tập đã không được Nguyễn Cừ để mắt; còn những cái lạc hậu, bất hợp lý người ta chưa có điều kiện phá đi làm lại, Nguyễn Cừ lại ngỡ đó là "tinh hoa kiến trúc" nên vội tiếp thu đưa vào công trình của mình.

Vậy còn kết quả của việc Nguyễn Cừ "đã trao đổi và học hỏi nhiều ý kiến của các chuyên gia văn hoá học, dân tộc học, ngôn ngữ học, các bạn đồng nghiệp và ý kiến bạn đọc” thì thế nào ? Theo chúng tôi không có gì đặc biệt, ngoại trừ một vài câu tục ngữ mà nhiều từ điển nhưTừ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam (Nhóm Vũ Dung-Vũ Thúy Anh-Vũ Quang Hào-NXB Văn hóa-2000); Từ điển tục ngữ Việt (TS Nguyễn Đức Dương-NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh-2010) Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam (GS Nguyễn Lân-NXB Thời đại-2010) đều giải thích sai, nhưng Nguyễn Cừ lại giải thích gần đúng: "Chiêm khôn hơn mùa dại: Trước đây nông dân chỉ có hai vụ lúa trong một năm, vụ lúa mùa và vụ lúa chiêm. Trong hai vụ lúa thì lúa mùa là lúa chính, còn vụ lúa chiêm là phụ. Tuy nhiên, nếu vụ lúa chiêm mà thu hoạch tốt, được mùa thì giá trị của nó còn hơn vụ mùa bình thường". Chúng tôi nói gần đúng, bởi đáng lẽ phải hiểu cụ thể: nếu ở vụ chiêm biết chăm sóc, đầu tư kỹ thuật, phân bón (khôn) lúa vẫn có thể cho năng suất cao hơn so với vụ mùa mà kém chăm sóc, đầu tư (dại) mới chính xác. 
Những câu thuộc diện này trong sách của Nguyễn Cừ khá hiếm hoi.
3.Không “tham” mà giống như “tham”:
          Trong số 19 đầu sách tham khảo mà Nguyễn Cừ liệt kê, chúng tôi không thấy có cuốn nào của cụ Nguyễn Lân. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là những cái sai của Nguyễn Cừ lại giống hệt như cái sai trong “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam” của cụ Nguyễn Lân. Ví như: tuyển chọn cả câu đố, ca dao cười, ngữ danh từ, quán ngữ, cụm từ láy, cụm từ đơn thuần vào sách làm “tục ngữ”; viết sai chính tả, sai hình thức các câu tục ngữ, chữ tác đánh chữ tộ, giải nghĩa theo kiểu đoán mò, suy diễn, v.v... Nếu bạn đọc từng biết tới loạt bài  "Dĩ hư truyền hư..." và "Thử lý giải những sai sót để đời của Nhà biên soạn Từ điển, GS Nguyễn Lân..."của chúng tôi sẽ dễ dàng nhận ra những cái “rất giống” đó. Bởi vậy, sau đây, chúng tôi chỉ cần làm công việc đơn giản là copy lại một số đoạn trong loạt bài  "Dĩ hư truyền hư..." và "Thử lý giải những sai sót để đời..." viết về cái sai của cụ Nguyễn Lân rồi Paste vào chỗ sai của Nguyễn Cừ là xong. Độc giả đọc những dòng chúng tôi trao đổi về cụ Nguyễn Lân sẽ hiểu chúng tôi muốn nói gì với Nguyễn Cừ:
-Nguyễn Lân: Chó già, gà non Ý nói: Thịt chó già không tanh, thịt gà non mới mềm.
-Nguyễn Cừ: Chó già, gà non:Chó già thịt dai, nạc, thơm, còn gà non mềm thịt.
Chúng tôi (dưới bút danh Hoàng Tuấn Công) đã giải thích trong loạt bài  "Dĩ hư truyền hư..." như sau: “Câu này không có ý khen hai món ăn đều ngon. Ngược lại, chó già, gà non đều là hai thứ không ngon. Chỉ cần xem các quán thịt chó trương tấm biển “Cầy tơ bảy món” cũng đủ hiểu. Cầy tơ chính là thịt con chó tơ. Thịt chó già ăn dai nhách. Nếu hầm cho mềm, nhừ thì đã teo tóp, ra hết nước, ăn làm sao ngon được ? Còn gà non chỉ phù hợp để nấu cháo. Nếu dùng để ăn thịt, luộc, rang, ít nhất gà cũng phải ở tuổi trưởng thành. Theo kinh nghiệm dân gian, ngon nhất là gà đang đẻ lứa thứ nhất, thứ hai (Cải vòng non, gái một con, gà nhảy ổ đẻ).
Câu “Chó già, gà non” nói về kinh nghiệm chăn nuôi, sản xuất chứ không phải lựa chọn món ăn. Nó chính là dị bản rút gọn của câu “Chó thiến già, gà thiến non”.Cách rút gọn này ngắn gọn đến nỗi chỉ còn tính quy ước. Giống như câu “Khôn chi không trẻ, khỏe chi khỏe già”được rút gọn thành “Khôn trẻ, khỏe già”.Nếu không tìm hiểu kỹ rất dễ sai lầm.
-Nguyễn Lân: Vịt già, gà toÝ nói vịt già thì ăn được, còn gà thì phải to béo, chứ gà già thì thịt dai". 
-Nguyễn Cừ: Vịt già, gà to: Vịt già thơm thịt, gà to nhiều thịt ít xương.
“Câu "Vịt già, gà " thuộc loại tục ngữ có cấu trúc đối sánh: Vịt với gà; già với (non). Nhưng vì không xét đến quy luật cấu trúc câu, từ của dân gian nên GS Nguyễn Lân sẵn sàng để già (chỉ mức độ già, non) đối với to (chỉ khối lượng to, nhỏ). Cách giải thích này trở nên vô lý bởi gà "to béo" đâu có nghĩa là gà tơ, thịt không dai ? Ngược lại, con gà "to béo" hoàn toàn có thể là con gà già, đã đẻ nhiều lứa, thịt dai.
-Nguyễn Lân: Màn hoa lại trảichiếu hoa, bát ngà lại phải chiếu ngà mâm son: Tả cái cảnh xa hoa của gia đình giàu sang ngày trước.
-Nguyễn Cừ: “Màn hoa lại trải chiếu hoa, bát ngà lại phải đũa ngà mâm son: Cảnh sung túc và cách bày đặt các đồ dùng của gia đình giàu có thời phong kiến, chỉ nhìn thấy cách sử dụng này đã biết là nhà có của”.
HTC:“Về mặt văn bản, không phải chiếu ngàmà là đũa ngà (Nguyễn Cừ bớt được cái sai này) Vì vế trên đã có chiếu hoa, và thực tế cũng không có chiếu nào gọi là chiếu ngà. Mặt khác, không phải “bát ngà” mà là bát ngọc. Bát ngọc đi với đũa ngàmới đúng: Màn hoa lại phải chiếu hoa, Bát ngọc lại phải đũa ngà mâm son. Từ “trải” trong cụm từ “lại trải chiếu hoa”phải thay bằng “phải”. Mấy từ “lại phải”rồi “lại phải” chính là nói lên yêu cầu tương xứng giữa cái nọ với cái kia. Dân gian có câu: “Tiếc thay hạt gạo tám xoan, Nấu nồi đồng điếu lại chan nước cà” hoặc “Trai tơ mà lấy nạ dòng, Như nước cáy thối chấm lòng lợn thiu” rồi “Đũa mốc lại chòi mâm son”. Ấy là nói về những sự kết hợp không cân xứng, không hài hoà. Câu tục ngữ: "Màn hoa lại phải chiếu hoa, Bát ngọc lại phải đũa ngà, mâm son" nói lên cái đẹp cân xứng, hài hoà, đồng bộ đi với nhau, không khập khiễng. Nếu hiểu: “tả cảnh xa hoa của gia đình giàu sang ngày trước” thì hình thức câu tục ngữ phải là: "Màn hoa lại trải chiếu hoa, bát ngọc lại có đũa ngà mâm son" mới đúng”.
-Nguyễn Lân: Người ta đánh chú, tôi chẳng tha người, chú đánh cha tôi, tôi chẳng tha chú Ý nói: Trong quan hệ họ hàng, người trên có đúng đắn, người dưới mới kính phục”.
-Nguyễn Cừ: “Chú đánh cha tôi, tôi tha gì chú:Phê phán con cái bênh vực cha mẹ hỗn xược với chú bác ngành trên, mất tôn ti trật tự”.
Nếu cho rằng câu tục ngữ nói đến mối “quan hệ họ hàng”, trên dưới, thứ bậc là không đúng. Bởi vì “người ta” (người đánh chú) ở đây ám chỉ một người dưng, không phải trong họ hàng hoặc gia đình. Nghĩa đen câu này được hiểu: Nếu người dưng đánh chú, tôi sẽ đứng ra bảo vệ chú, bởi chú là người ruột thịt, thân thiết với tôi. Tuy nhiên nếu chú đụng đến cha tôi, người tôi đứng ra bảo vệ không phải là chú nữa mà là cha tôi (người thân thiết với tôi hơn so với chú).“Chẳng tha người”, với “chẳng tha chú” nghĩa là đều bị đối xử như nhau, đều không thể tha thứ được, mặc dù thân sơ có khác nhau, nói lên vị trí người cha là vô cùng quan trọng trong gia đình, xã hội. Ý câu thành ngữ muốn khẳng định lẽ thường: người ta có quyền và trước tiên phải bảo vệ người thân thiết nhất của mình, hoặc bảo vệ quyền lợi sát sườn của mình, bất kể kẻ xâm phạm là ai”.
-Nguyễn Lân: Im như thóc đổ bồ(Người có thóc đổ vào bồ không muốn cho người ngoài biết, sợ người ta vay mượn) Ý nói im lặng một cách ích kỷ.
-Nguyễn Cừ: Im như thóc đổ bồ: Có thóc đổ bồ phải giấu kín vì sợ người ta vay hoặc sợ trộm cắp.
 “Im”ở đây không phải tả động tác đổ thóc vào bồ một cách nhẹ nhàng, kẻo có người (đang rình ở xó nhà hay bờ vách nhà mình chăng ?!) nghe tiếng rào rào của thóc chảy vào bồ rồi đến vay mượn. Sự im lặng theo nghĩa đen này ám chỉ những hạt thóc đã ở yên  trong bồ, đã cất vào bồ, đưa vào trong kho, buồng kín rồi, không có gì xáo trộn nữa. Đó là sự im hơi, lặng tiếng ở một nơi kín đáo, không hề nhúc nhích. Có dị bản mang tính nhấn mạnh hơn “Câm như thóc” hoặc “Im như thóc trầm ba mùa”. Thóc “trầm ba mùa” là thóc không còn khả năng mọc mầm nữa, một sự im lặng tuyệt đối và mãi mãi.
  Ý thành ngữ: Sự sợ sệt, im thin thít, không nhúc nhích, không dám tỏ thái độ phản ứng trước một việc nào đó. Đó là cách ví von, sự mô tả giàu tính hình tượng của thành ngữ dân gian.
-Nguyễn Lân: Mặt sứa, gan lim Như câu: Mặt rắn như sành.
-Nguyễn Cừ: Mặt sứa, gam lim: con người lì lợm cả về hình thức lẫn tính cách.
 Câu “Mặt rắn như sành” nhận xét khuôn mặt lộ rõ bản chất của con người rắn mày, rắn mặt, ương bướng. Còn câu “Mặt sứa, gan lim” lại nói mâu thuẫn giữa hình thức và nội dung. “Mặt sứa”(bề ngoài) thì tỏ vẻ hiền lành, trắng bợt, mềm nhũn như con sứa (một loài động vật không xương sống ở biển, thân rất mềm, trắng), nhưng bên trong (gan) lại đen và rắn như gỗ lim. Câu này thường hay dùng để nhận xét về những người bề ngoài có vẻ hiền lành nhu mì nhưng lại dám làm những chuyện tày đình. Trái với câu “Mặt sứa gan lim”“Miệng hùm, gan sứa”.
-Nguyễn Lân: Máu loãng còn hơn nước lã Quan niệm cũ cho rằng dù là họ hàng xa cũng còn hơn người dưng.
Máu mủ chẳng thương, thương thiên hạ hàng xứ: Lời trách móc theo quan niệm cũ cho rằng có họ hàng với nhau thì phải đùm bọc, thương yêu hơn là đối với người dưng.
-Nguyễn Cừ: Chín đời còn hơn người dưng:Thiên vị huyết thống dòng tộc.
Giọt máu đào, hơn ao nước lã: Đề cao huyết tộc quá mức.
Cách giải thích này sai về phương pháp luận. Bởi với người làm từ điển, thành ngữ tục ngữ được dân gian hiểu và dùng thế nào thì giải thích đúng như thế. Không nên bỏ nhiệm vụ giải thích rồi sa vào phê phán. Hơn nữa các câu tục ngữ trên khuyên người ta phải biết yêu thương người thân, máu mủ, ruột thịt; đề cao tình cảm huyết thống, dòng tộc. Điều đó không có gì là xấu, là “quan niệm cũ kỹ”. Bởi “Gia đình là tế bào của xã hội”, con người trước tiên phải ý thức được tình cảm máu mủ, ruột thịt, phải biết yêu thương ông bà, cha mẹ mới có thể yêu thương anh em, bạn bè, đồng chí. Rộng hơn nữa là ý thức đồng bào, dân tộc rất đáng được trân trọng. Và thương yêu người thân không có nghĩa ghét bỏ người dưng. Người trong một nước thương yêu nhau không có nghĩa là ghét bỏ nhân loại. Như câu ca dao “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Vậy GS Nguyễn Lân nghĩ sao ?”
Trên đây chỉ là số ít trong rất nhiều trường hợp cái sai của Nguyễn Cừ giống cụ Nguyễn Lân. Vì bài đã dài, chúng tôi xin không nêu thêm.
Sách “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam” ra đời năm 1988, “để giúp cho thế hệ trẻ dùng được vốn từ ngữ trong văn hóa dân gian”(Lời nói đầu của cụ Nguyễn Lân). Hai lăm (25) năm sau (2012) sách “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” mới xuất bản, “bắt nguồn từ sự cần thiết dùng cho học sinh, sinh viên và nhiều các đối tượng khác”(Lời nói đầu của Nguyễn Cừ). Lúc này Nguyễn Cừ đang là “Giám đốc, Tổng biên tập NXB Văn học”; còn cụ Nguyễn Lân đã 9 năm thành người thiên cổ. Như vậy không có chuyện cụ Nguyễn Lân chịu ảnh hưởng của Nguyễn Cừ. Tuy nhiên cũng khó có thể nói Nguyễn Cừ chép lại của cụ Nguyễn Lân. Bởi người xưa nói: “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Chuyện kẻ trước, người sau, tuy không đi chung một đường nhưng cuối cùng vẫn gặp nhau tại một điểm là chuyện thường.
Sách của hai Nhà nghiên cứu, biên soạn từ điển Nguyễn Lân và Nguyễn Cừ đều hướng tới đối tượng độc giả là "thế hệ trẻ""học sinh, sinh viên". Không rõ hai tác giả họ Nguyễn nghĩ sách của mình đã đạt chuẩn "giáo khoa", hay cho rằng "thế hệ trẻ""học sinh, sinh viên"  “trẻ người non dạ” nên muốn biên soạn thế nào cũng được ?
Từ những gì đã thấy trong “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam”, bạn đọc có quyền nghi ngờ chất lượng một số công trình biên soạn khác của Nguyễn Cừ như: “Tục ngữ Việt Nam” “Tục ngữ-ca dao Việt Nam”...
                                                                    HTC/8/2014

Mời độc giả đón đọc loạt bài “Những sai lầm của PGS,TS Nguyễn Công Lý trong “Giải thích từ ngữ Hán Việt trong sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sởcủa Hoàng Tuấn Công trên Quê Choa và Tuấn Công Thư Phòng

Thứ Tư, 20 tháng 8, 2014

Vài cảm nhận về "Tuấn Công thư phòng"


Bọn trẻ chơi Đố chữ ở Thư phòng (Ảnh TC)

      Trần Đức Anh

Đến 5/9/2014 sẽ tròn 1 năm ngày TCTP ra đời và đăng bài viết đầu tiên. Tình cờ nhận được bài viết của độc giả quen thuộc: Trần Đức Anh-Giảng viên khoa Toán-Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. TCTP chân thành cảm ơn và xin trân trọng giới thiệu tới bạn đọc. 

                 Tôi vẫn nhớ loạt bài viết Dĩ hư truyền hư của Hoàng Tuấn Công (HTC) lần đầu tiên công bố trên Tuấn Công thư phòng và một số trang Blog khác. Tuy không phải được in trên một Tạp chí chuyên ngành ngôn ngữ hay Tạp chí nghiên cứu nào đó, nhưng bạn đọc nhận thấy nội dung và phong cách viết của tác giả rất thuyết phục. Nhiều trí thức bàn tán rôm rả, rồi thắc mắc, đoán già đoán non không biết “nhân vật” Hoàng Tuấn Công là ai, làm ở Viện nghiên cứu nào mà đột ngột xuất hiện, “cả gan” dám “lay” cả cây đa, cây đề Nguyễn Lân từng “rợp bóng” qua hai thế kỷ khiến bao người Việt Nam phải ngước nhìn. Đến các bài “Tiếng mẹ đẻ...” rồi “Một đời chính tả...”nằm trong loạt bài “Thử lý giải những sai sót để đời của Nhà biên soạn từ điển...”, bạn đọc dự cảm “cây đa” to kia sắp bị bật gốc mất rồi...
          Khi tiếp nhận loạt bài viết của HTC khiến tôi cũng nhớ lại những danh hiệu giả tạo, từng gây xôn xao trong giới học trò: danh hiệu “Bộ óc vĩ đại”. Ngày đó, là một học sinh, cỡ tầm 16-17 tuổi, thấy một vài nhà khoa học Việt Namđược báo chí trong nước vinh danh là những “Bộ óc vĩ đại”, tôi cảm thấy tự hào lắm. Tự hào bởi đất nước ta còn nghèo, nhỏ bé, mà vẫn có những con người có trí tuệ ngang tầm thế giới. Sau này tôi mới vỡ lẽ, câu chuyện thực không đẹp đến vậy. Câu chuyện này thuộc về ngành Toán nên có thể nhiều độc giả của Tuấn Công thư phòng chưa hẳn đã quan tâm và biết đến. “Bộ óc vĩ đại” đơn giản là một danh hiệu được xác nhận bởi một Công ty của Hoa Kỳ, đất nước có nhiều thứ tồn tại mà người Việt Nam chưa thể hình dung hết. Nghĩa là nếu kinh doanh có lợi nhuận, không vi phạm pháp luật là có thể tồn tại (vì ngây ngô, thiếu kiến thức nên mãi sau này tôi mới hiểu). Để có danh hiệu “Bộ óc vĩ đại” đó, người ta chỉ cần trả cho Công ty nọ một khoản tiền, tầm 150 đô-la. Thời đó, (khoảng năm 2000-2005), 150 đô-la chắc là không nhỏ (tôi không nắm được rõ vì lúc ấy còn là học sinh phổ thông). Và nhiều người hám danh, (có thể cố tình hoặc vô tình) muốn nhận danh hiệu đó đã quảng bá rầm rộ trên các Tạp chí, sách báo mà độc giả phần đông là học sinh phổ thông hoặc người dân bình thường (như bố mẹ tôi chẳng hạn). Nếu bạn đọc muốn tìm lại những vụ việc kiểu đó chỉ cần gõ cụm từ “chế tạo viện sĩ” lên trên google với đầy đủ dấu ngoặc kép là có thể hiểu rõ câu chuyện.
          Vậy tại sao nhiều người cả tin tới vậy? Với kinh nghiệm của cá nhân tôi (một người từng cả tin), chuyện cả tin là việc gần như không thể tránh khỏi, nếu gia đình người đó vốn dĩ không làm công việc liên quan nhiều tới giới trí thức. Ví dụ bố mẹ tôi chỉ là công chức bình thường, thông tin, nhận thức chủ yếu tiếp nhận qua các kênh thông tin đại chúng. Là con cái, chúng tôi cũng chỉ được dạy là chú tâm vào học hành, còn định hướng suy nghĩ, nhận thức thì tất cả phải tự mình tìm tòi. Bởi vậy, chỉ với kiến thức sách vở trong nhà trường, nhiều học sinh Việt Nam trong đó có tôi trở nên rất ngây thơ khi va chạm thực tế cuộc sống. Điều này khó có thể trách ai, bởi vì xã hội ta chuyển biến quá nhanh, nguồn thông tin lại tự do tới hỗn độn, rất khó kiểm chứng.
Có thể nói, tác hại của những thông tin giả, danh hiệu giả không dễ thấy và cũng không dễ xóa bỏ. Ví dụ: Với những người được xã hội tụng ca, đôn lên mức thần tượng khiến ta tìm tòi các bài viết mô tả cách học tập và rèn luyện của họ. Nhưng tiếc thay, vì vốn dĩ họ không giỏi thật sự như cái danh hão họ có, nên những câu chuyện về họ, hay những gì họ kể, thật khó trở thành những kinh nghiệm thiết thực, hữu ích cho những người nhỏ tuổi đang trên bước đường học hỏi (ví dụ lúc đó tôi là một học sinh). Và việc học tập những kinh nghiệm vốn dĩ không thiết thực, sẽ gây cho người học một ảo tưởng nhất định, một sự thất vọng nhất định.
Ngoài ra, vì vốn dĩ không thực tài, những “thần tượng” thường chỉ chăm chú thêu dệt cái danh hão của họ, đầu óc ngây thơ của học sinh rất dễ bị tiêm nhiễm thói háo danh.
Sau khi đi làm, cuộc sống tạm ổn định, tôi có nhiều thời gian đọc sách hơn, nhất là sách không chuyên ngành Toán. Tôi thấy những người thực sự giỏi, thực sự có tâm chẳng ai nói năng hay làm những việc giống những vị thích danh hão kia. Người tài thường không thích nói nhiều về bản thân. Ví như lên truyền hình để khoe khoang về bản thân, để được nhiều người biết đến có lẽ chỉ thấy ở mấy vị danh nổi như phao mà tài cũng rỗng và nhẹ như bấc...
Bởi vậy, khi thấy công việc của Hoàng Tuấn Công và thân phụ trên trang Tuấn Công thư phòng, tôi thật sự rất thích thú. Thích thú hơn nữa khi ta nhận thấy ở đây có sự tiếp nối của hai thế hệ. Đến với Tuấn Công thư phòng, tôi có thể học hỏi được ít nhiều từ phong cách làm việc, cách lý luận, cách suy nghĩ, và nội dung văn hóa được đề cập từ blog. Điều đầu tiên độc giả có thể thấy ngay là tác giả đã dũng cảm chỉ ra cái sai sót bị che đậy đã lâu trong các cuốn từ điển của GS Nguyễn Lân, một thần tượng lớn trong suy nghĩ của nhiều người Việt Nam. Một thời gian dài chúng ta đều tiếp cận thông tin về GS Nguyễn Lân qua truyền thông, qua những lời đồn thổi mà chưa có ai làm công việc xác định lại giá trị thực của những công trình ông biên soạn. Đọc Tuấn Công thư phòng bỗng vỡ lẽ ra tất cả.
Từ học hỏi nội dung các bài viết của Hoàng Tuấn Công, ta biết thêm Lê Mạnh Chiến, An Chi với nhiều bài viết rất hay và bổ ích. Nhân đây tôi cũng muốn nói thêm rằng, loạt bài viết có hệ thống, đăng trong khoảng thời gian hơn nửa năm trời của Hoàng Tuấn Công có tác dụng làm thay đổi nhận thức của rất nhiều bạn đọc và nhiều người về thần tượng GS Nguyễn Lân. Vì An Chi từng phê bình Nguyễn Lân thời Nhà biên soạn từ điển nổi tiếng này đang còn sống. Rồi tiếp đến bài phê bình của Lê Mạnh Chiến. Thế nhưng, thần tượng Nguyễn Lân vẫn tiếp tục được người ta ca tụng, Nguyễn Lân vẫn tiếp tục viết sách, từ điển của ông vẫn được tái bản liên tục, mà đỉnh điểm là cuộc Hội thảo đình đám “NGND, GS Nguyễn Lân, cuộc đời và sự nghiệp”nhân 10 năm ngày mất của “danh nhân” này cùng ý định đặt tên NL cho một con đường ở Thủ đô. Tuy nhiên, sau gần 1 năm, câu chuyện này không thấy được nhắc đến. Có vẻ như loạt bài của HTC và An Chi, Lê Mạnh Chiến cuối cùng cũng đã tác động đến không chỉ bạn đọc mà còn đối với chính quyền và các nhà quản lý?
Đến với Tuấn Công thư phòng, ta thấy blog có hai mảng rõ ràng, tương ứng với công việc của hai Cha con tác giả: Hoàng Tuấn Công viết nghiên cứu, phê bình mảng ngôn ngữ, Hoàng Tuấn Phổ bàn về nhiều vấn đề của lịch sử, văn hóa Việt Nam nói chung và Thanh Hóa nói riêng. Những mảng kiến thức như vậy đều rất cần thiết, bởi trong thời đại hiện nay, những nét đặc trưng của dân tộc Việt Namcần phải được làm rõ và mọi người Việt Nam nên nắm được.
Có thể nói những đóng góp như Tuấn Công thư phòng không phải lúc nào cũng được thấy ở các trang Blog khác. Ngoài sách của Nguyễn Lân, bạn đọc còn bất ngờ bởi dưới ngòi bút của Tuấn Công thư phòng, sự thực trong sách của nhiều “nhà”, nhiều “chuyên gia” khác như: Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương với “Từ điển tục ngữ Việt”, Chuyên gia số một về thơ Bác Lê Xuân Đức với chuyện đạo văn và “không biết chữ dạy người biết chữ”, gần đây là “Chuyên gia” Nguyễn Cừ, rồi sách “Những nhà khoa bảng xứ Thanh” của Nhóm PGS.TS Hà Đình Đức,v.v... Riêng để viết được loạt bài về Nguyễn Lân, tác giả phải đọc hàng ngàn trang từ điển, chưa nói đến các tài liệu tra cứu, trích dẫn công phu. Cảm nhận của riêng tôi là các tác giả đã huy động lượng kiến thức khá lớn, bao gồm cả kiến thức sách vở và kiến văn thực tế để phục vụ bạn đọc. Nhiều vấn đề bạn đọc cảm thấy được sáng rõ sau khi đến với Tuấn Công thư phòng. Bởi vậy tôi nghĩ tới việc nên làm một việc gì đó để tỏ lòng ủng hộ công việc của TCTP. Tôi cũng mong Tuấn Công thư phòng sẽ hoạt động đều đặn, giữ được phong độ, có thêm nhiều bài viết chất lượng.
Cuối cùng, tôi chỉ có một góp ý nhỏ: blog nên có một trang (page, một chức năng của blogspot) trong đó tập hợp link (đường dẫn) của các bài viết quan trọng hoặc theo chủ đề, điều đó sẽ giúp việc khai thác Tuấn Công thư phòng dễ dàng hơn.

                                              Trần Đức Anh/8/2014